Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV: Hoàn thiện hệ sinh thái phục vụ kết nối, khai thác dữ liệu dân cư
Chiều 2/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 5, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Quốc hội xem xét, đánh giá các tờ trình, báo cáo về dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi) và tiến hành thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
Mở rộng, tích hợp thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia
Tại phiên làm việc, trình bày tờ trình về dự án Luật Căn cước, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho biết, Luật Căn cước công dân năm 2014 là văn bản pháp lý quan trọng trong công tác quản lý dân cư, căn cước, tạo thuận lợi cho nhân dân trong việc đi lại, thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại… Tuy nhiên, qua hơn 7 năm triển khai thi hành, Luật đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc cần giải quyết.
Vì vậy, cần thiết xây dựng dự án Luật Căn cước nhằm mục đích phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng công dân số; hoàn thiện hệ sinh thái phục vụ kết nối, khai thác, bổ sung làm giàu dữ liệu dân cư; phục vụ chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp.
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trình bày tờ trình về dự án Luật Căn cước. Ảnh: quochoi.vn |
Dự án luật được xây dựng dựa trên quan điểm chỉ đạo quán triệt và cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về căn cước; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân; phục vụ chuyển đổi số quốc gia, góp phần xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, xã hội số.
Về các nội dung liên quan đến nguyên tắc quản lý căn cước, Bộ trưởng cho biết, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước; quyền và nghĩa vụ của người dân về căn cước, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước; trách nhiệm của cơ quan quản lý căn cước cơ bản được giữ như quy định của Luật Căn cước công dân năm 2014 và chỉnh lý, bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của người gốc Việt Nam, bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền của người dân liên quan đến căn cước điện tử… cho đầy đủ, chặt chẽ.
Về tích hợp thông tin vào thẻ căn cước, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết, dự thảo Luật bổ sung quy định về việc tích hợp một số thông tin có tính ổn định, được sử dụng thường xuyên của người dân ngoài thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước vào thẻ căn cước; thẻ căn cước có giá trị sử dụng để cung cấp thông tin về người dân và tương đương việc xuất trình các giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp có thông tin đã được in hoặc tích hợp trong thẻ căn cước; qua đó giúp giảm giấy tờ cho người dân, tạo thuận lợi cho người dân trong thực hiện giao dịch dân sự, thực hiện chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính. Người dân thực hiện thủ tục tích hợp thông tin vào thẻ căn cước thông qua việc cấp, cấp đổi, cấp lại thẻ căn cước hoặc ứng dụng VNeID khi đã có căn cước điện tử.
Về căn cước điện tử, theo Bộ trưởng Bộ Công an, đây là nội dung được bổ sung so với quy định của Luật Căn cước công dân năm 2014. Dự thảo Luật quy định mỗi người dân chỉ có 1 căn cước điện tử là tài khoản định danh điện tử do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập; việc thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử phải sử dụng căn cước điện tử. Căn cước điện tử được sử dụng để thực hiện các giao dịch, hoạt động khác theo nhu cầu của người dân…
Trình bày Báo cáo thẩm tra tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, Ủy ban Quốc phòng và An ninh nhất trí sự cần thiết ban hành Luật Căn cước như Tờ trình của Chính phủ và cho rằng, việc ban hành Luật Căn cước nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xây dựng Chính phủ điện tử, giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện, tạo bước đột phá về chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập của Luật Căn cước công dân hiện hành.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày báo cáo thẩm tra về dự thảo luật. Ảnh: quochoi.vn |
Để việc xây dựng, ban hành Luật Căn cước được chặt chẽ, phát huy có hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, đề nghị Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số đồng bộ, sớm hoàn thiện ứng dụng tài khoản định danh điện tử, kết nối, chia sẻ thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phát huy tối đa hiệu quả của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước.
Để bảo đảm tính khả thi, đề nghị tiếp tục rà soát và đánh giá sâu hơn về tác động của các chính sách mới trong dự án Luật; rà soát, chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng dự thảo Nghị định, Thông tư, tạo điều kiện triển khai thực hiện đồng bộ, thông suốt khi Luật có hiệu lực thi hành…
Nới thời gian cấp thị thực
Tại phiên thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, các đại biểu đề nghị bổ sung báo cáo đánh giá tác động, bổ sung số liệu phản ánh người dân có trình độ thấp, người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, người già chưa được tiếp cận công nghệ thông tin, đánh giá tác động về công tác bảo đảm an ninh, trật tự khi mở rộng diện cấp thị thực điện tử và tăng thời gian tạm trú đối với người nước ngoài nhập cảnh.
Đề nghị rà soát các thông tin trên giấy tờ xuất, nhập cảnh để bảo đảm tính ổn định, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo thuận lợi thống nhất, kết nối liên thông giữa các cơ sở dữ liệu, đặc biệt là Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và bổ sung quy định thông tin khác do Chính phủ quyết định cho linh hoạt.
Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người Việt Nam tại nước ngoài, các đại biểu đề nghị làm rõ căn cứ để quy định thời hạn thị thực không quá 3 tháng. Có ý kiến đề nghị nên nâng thời hạn thị thực lên không quá 6 tháng. Cũng có ý kiến đề nghị nghiên cứu, xem xét nâng thời hạn của thị thực từ 30 ngày lên 45 ngày, hoặc 90 ngày. Đề nghị quy định thời hạn thị thực dài hơn đối với người không còn quốc tịch Việt Nam nhưng còn thân nhân ở trong nước.
Đại biểu tham dự phiên làm việc. Ảnh: quochoi.vn |
Đại biểu đề nghị Chính phủ rà soát, bổ sung danh sách các nước có công dân được cấp thị thực điện tử ở các cửa khẩu quốc tế cho phép người nước ngoài nhập cảnh bằng thị thực điện tử, trước khi Quốc hội thông qua dự án Luật này….
Nhiều ý kiến nhất trí với thời hạn cấp Giấy chứng nhận tạm trú tại cửa khẩu cho người nhập cảnh theo diện đơn phương miễn thị thực là 45 ngày; có ý kiến đề nghị làm rõ hơn căn cứ quy định 45 ngày. Cũng có ý kiến đề nghị tăng lên 60 ngày, hoặc 90 ngày để thuận lợi hơn cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cấp tạm trú có giá trị nhiều lần để tạo điều kiện cho người nước ngoài.
Nhiều ý kiến đề nghị bổ sung đồn biên phòng, trạm biên phòng tiếp nhận khai báo tạm trú của người nước ngoài tại khu vực biên giới để phù hợp với các hiệp định liên quan đến quản lý biên giới, cửa khẩu trên đất liền với Việt Nam và các nước láng giềng phù hợp với một số luật như Luật Biên giới quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và các nghị định liên quan.
Lan Anh (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc