Nước mắt chữ
“Giá như em và ông Blới sống với nhau tốt đẹp. Và giá như…” - Lời mở đầu câu chuyện của cô giáo A Nách (làng Đăk Pơ Nan, xã Mang Yang, tỉnh Gia Lai) dường như còn vương nước mắt...
Sinh ra và lớn lên giữa làng phong, nỗi bất hạnh của cuộc đời đã thôi thúc A Nách quyết đưa ánh sáng về làng bằng con chữ...
Trong bóng đêm luật tục
Cái tin có cô giáo về dạy chữ cho lũ con nít khiến người làng Cùi (tên gọi làng của người mắc bệnh phong) không ai không ngạc nhiên. Lại tưởng cô giáo là ai, hóa ra là cái A Nách mất chồng! Cứ nghĩ nó buồn quá bỏ làng đi luôn, nào ngờ nó đi học làm cô giáo thật. Chẳng biết rồi sẽ thế nào nhưng cứ mừng cái đã. Làng Cùi này vốn chẳng ai dám bước chân vào, nói gì có cô giáo đến dạy chữ...
Nhiều người làng Cùi còn nhớ, giải phóng được ba mùa rẫy thì có người đàn ông dắt hai đứa con gái đến xin nhập làng. Hỏi mới biết ông tên là Siu Phun, xưa ở làng Groi. Cuộc sống đang yên lành thì vợ mắc bệnh phong, vậy là cả nhà bị đuổi ra rừng. Nghe trên Kon Tum có trại phong, vợ chồng dắt díu nhau lên. Giải phóng được 2 năm thì vợ chết, ông Siu Phun đưa con trở về làng cũ. Cứ tưởng vợ chết rồi thì chẳng còn ai sợ nữa, nào ngờ người ta vẫn nghĩ cha con Siu Phun cũng bị bệnh phong. Chẳng còn cách nào, Siu Phun đành đến đây...
Nhưng mới nhập làng chưa ấm chỗ đã thấy ông Siu Phun ép A Nách phải “bắt” ông Blới làm chồng. A Nách vẫn gọi Blới bằng “ông” bởi Blới lúc đó đã gần 40 tuổi, còn A Nách mới 13 mùa rẫy. Thực tình ông Blới cũng thương Nách nhưng biết vợ không ưng mình, ông ghen dữ quá. Thấy người ta cười với A Nách, ghen; người ta đùa chuyện ở đâu cũng ghen. Mà đã ghen vô lối thì A Nách phải cãi. Ồn ào nhà cửa quá, cha Nách bảo: “Không cho mày ở chung với thằng Blới nữa thì mới hết cái khổ này”. Việc đem ra làng xử. Blới đồng ý bỏ vợ nhưng nằng nặc đòi lại con heo nhỏ đã đem cưới Nách. Già làng bảo: “Con A Nách đã làm vợ mày 3 tháng, nó thiệt chứ mày thiệt gì. Đòi lại con heo đã ăn rồi, không thấy xấu hổ à?”. Blới phải chịu nhưng chuyện xảy ra làm A Nách nghĩ phải đi học. Nếu không tìm cách thoát khỏi làng thì sẽ gặp Blới khác nữa thôi…
Tiếng là đã học lớp 3 hồi ở Kon Tum nhưng bây giờ cầm lại sách thì chẳng còn chữ nữa, Nách phải học lại lớp 1. Xong chương trình lớp 9 bổ túc, A Nách được xã cho làm Chủ tịch Hội Phụ nữ. Chuyện buồn đã nhạt, thấy mình như trẻ lại, A Nách hăng hái lao vào công việc. Thế rồi một dịp tình cờ, Nách đã gặp H. Cứ tưởng ông trời đã cho hạnh phúc, Nách có ngờ đâu một khúc tình buồn hơn cả người đàn ông trước lại đến với đời mình…
H. cùng tuổi với A Nách. Cuộc sống lúc đầu êm thấm. Nhưng nào ngờ được trong vòng 8 năm, Nách nhiều lần có thai mà đều hỏng cả; quyết tâm có con cháy bỏng, A Nách có thai lần thứ 12...
H. buồn. Nhưng đáng lẽ phải động viên vợ thì H. lại hướng cái buồn sang người khác. Mà oái oăm, người đó lại là em gái của Nách - A Nưn. Đời A Nưn cũng buồn như cây bắp vừa trổ buồng đã hết mưa. Chồng chết để lại cho nó 4 đứa con. Nách thương em gái lắm. Nhưng chuyện dan díu giữa H. và A Nưn phải đưa ra làng phân xử. Ý già làng là phải phạt vạ H., bắt đền Nưn. Nách không nghĩ nhiều lắm. H. không thương mình nữa, cũng như cái đuốc đã cháy đến tay, không vứt đi có được đâu. Còn Nưn, bắt phạt nó có khác gì cầm dao tự cứa tay mình? Nách thưa với già làng: “Hai người đã thích nhau thì cho, chỉ mong sống thật thà với nhau cho đến già là được…”.
Một mình trong căn nhà vắng lặng hun hút gió, đêm đó ruột gan A Nách như có ai nấu. Đời người đàn bà Bahnar sao khổ quá. Chẳng phải riêng Nách, còn bao nhiêu người cũng lắm nỗi buồn. Lớp người như Nách đành chịu thiệt thòi nhưng lớp người sau không thể thế. Làm cán bộ phụ nữ, tuy Nách cũng giúp được nhiều người nhưng chỉ là cái ngọn thôi. Muốn xóa cái gốc của lệ tục lạc hậu thì người ta phải có chữ trong đầu. Ý đã quyết, A Nách lên xã xin nghỉ việc và nộp đơn thi vào Trường Sư phạm Gia Lai...
![]() |
Cô A Nách làm rẫy sau giờ lên lớp. |
Những con chữ mướt mồ hôi và hạnh phúc...
Năm 1988 A Nách về làng mở lớp. Học sinh chỉ vỏn vẹn có 10 em. Trường học là căn lều tranh nhỏ do dân làng dựng. Bàn ghế, bảng làm bằng tre; phấn thì dùng sắn khô để viết. Tuy nhiên, việc khó hơn nhiều là giữ cho đám học trò ít ỏi ấy đừng sứt mẻ. Đi học đối với chúng cũng như đến nơi chơi. Vui thì ở, không thích thì về...
Cứ mỗi sáng, khi con gà vừa xuống đất, cô giáo A Nách đã phải đến từng nhà đón học trò. Có đứa vừa thoáng thấy cô giáo đến là lẻn trốn. Không sáng nào là không có những cuộc “đuổi bắt” giữa cô và trò. Thế nhưng cũng chưa nan giải bằng thời điểm làng vào mùa suốt lúa hay lễ hội. Phải ra nhà mả hay lên tận rẫy để “đuổi bắt” học trò, vậy mà đôi khi còn nuốt nước mắt trở về tay không... Kể sao hết những nỗi gian khổ nhưng mỗi khi gặp khó là cô A Nách lại nghĩ đến người đàn bà Bahnar, nghĩ đến cuộc đời của những con người còn chìm trong bóng đêm luật tục để tìm lối vượt qua...
Năm 1993 cuộc sống bắt đầu nảy nở. Làng Cùi được đặt tên là Groi nhỏ. Cô giáo A Nách được điều chuyển về trường trung tâm. Bắt đầu từ đây, các điểm trường làng lần lượt in dấu chân cô. Tuy nhiên tình cảnh như ở làng Groi nhỏ không những lặp lại mà còn tệ hơn. Lớp học mái tranh không vách, gió lùa thông thống. Đêm trâu bò vào phóng uế đầy sân, đầy nhà, cả lên bàn ghế. Sáng lên lớp, việc đầu tiên của cô giáo A Nách là lau chùi bàn ghế, dọn dẹp phân trâu bò. Có hôm làm không xuể, tủi thân quá vừa dọn vừa khóc. Giữ cho học sinh không bỏ học còn khổ nữa. Nhiều làng ở xa, đến nơi đã muốn hụt hơi. Không thể đủ thời gian để đến từng nhà như ở Groi nhỏ, cô giáo A Nách đành trích một phần tiền lương của mình để mua bánh kẹo “dụ” chúng đi học. Khó khăn khiến không ít giáo viên vào những nơi này là bỏ nghề, thế nhưng chưa bao giờ cô giáo A Nách ngã lòng. Cứ làng nào khó khăn, cô giáo A Nách lại được điều chuyển đến. Và cái “cửa ải” khó khăn nhất là lớp 1 bao giờ cũng được dành cho cô...
26 năm miệt mài với công việc gieo chữ thầm lặng của một cô giáo làng, A Nách chưa bao giờ nhận được một bông hoa, một món quà nhỏ vào ngày 20 tháng 11. Chính xác thì cũng có một lần duy nhất: Đó là một gói bánh bích quy giá 20 ngàn đồng của một phụ huynh học sinh người Kinh. Hãy còn nhớ như in lúc nhận món quà, cô đã ôm chầm lấy vị phụ huynh khóc òa lên và nói trong tiếng nấc “Món quà này em sẽ nhớ suốt đời, chết cũng không quên”...
Thiệt thòi bao nhiêu về mặt tinh thần với đồng nghiệp, cô cảm nhận hạnh phúc của mình phía khác: Từ ước mong giản dị ban đầu là các em đọc được chữ, biết làm vài phép tính giản đơn, học trò cô giáo A Nách bây giờ người vào đại học, người đang học tới thạc sĩ. Chỉ riêng 10 học sinh đầu tiên của làng phong ấy, có người giờ đã là Chủ tịch Mặt trận xã, người là cán bộ ngân hàng, người là sĩ quan công an. Những con chữ cô giáo A Nách gieo trồng đã góp phần làm sáng lên cuộc sống trên đất này. Nói riêng Groi nhỏ, ngôi làng tăm tối, nhỏ bé năm nào giờ đã nảy nở thành 63 nóc nhà. Không còn là “ốc đảo” của riêng người bị bệnh phong, Groi nhỏ bây giờ là nơi sinh sống hòa đồng của những người bình thường từ nơi khác đến. Lại thêm niềm hạnh phúc với cô giáo A Nách là cậu con trai tên Trạm. Trạm học xong lớp 11 thì nghỉ, lấy vợ và đang từng ngày nhân lên niềm hạnh phúc cho người mẹ từng qua một quãng đời khổ đau…
Câu chuyện giữa tôi và cô giáo A Nách kết thúc vừa đúng giờ tan học. Con đường trước ngõ nhà cô ríu rít tiếng nói cười. Nhìn những cô cậu học sinh mặc đồng phục mới, cưỡi xe đạp vun vút và người phụ nữ nhỏ bé, tóc đã điểm bạc ngồi trước mặt, tôi tưởng như vừa nghe một câu chuyện cổ tích từ thuở xa xăm nào...
Ngọc Tấn
Ý kiến bạn đọc