Nhớ mãi một người thầy
Thầy và tôi cùng quê. Thầy ở xóm Vụng, phía ngoài bãi sông, còn tôi ở xóm Đồng, hai làng cách ngăn bởi con đê Tả Lam.
Hồi còn học cấp 1 (bậc tiểu học bây giờ) tôi đã từng đến nhà thầy đôi ba lần. Đó là những lúc mẹ dẫn tôi đến gặp cụ thân sinh ra thầy để may quần áo mới đón Tết. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ hình ảnh người thợ may già duy nhất của cả hai xóm - ông cụ thân sinh ra thầy. Đó là một ông lão dáng tầm thước, nho nhã, lúc nào cũng bận quần áo lụa, đi guốc mộc, râu tóc như cước, gương mặt hơi gầy bởi tuổi già nhưng phúc hậu.
(Ảnh Internet) |
Tôi không biết gì nhiều về gia đình thầy, vì lớn lên đã xa nhà, xa quê biền biệt cho đến hôm nay, nhưng tôi hiểu đó là một gia đình gia giáo. Tôi cảm nhận được cái nho nhã, hiền từ, phúc hậu từ ông bà cụ thân sinh hiển hiện trên gương mặt, tính cách của những người con trong đó có thầy. Có sự sắp đặt nào chăng khi thầy chọn cho mình nghề giáo và hơn thế nữa là thầy giáo dạy Hán - Nôm?
Dù biết tiếng thầy từ lâu nhưng mãi đến sau này khi vào Đại học Sư phạm Vinh, tôi mới được gặp thầy. Đó là một buổi chiều mùa đông sau khi nhập học xong, người bạn cùng làng học khoa Toán đến ký túc xá rủ tôi tới khu cán bộ thăm thầy. Lúc bấy giờ, trường mới chuyển từ nơi sơ tán về được một thời gian nên cơ sở vật chất còn tạm bợ. Trừ giảng đường, đúng hơn là các phòng học được xây theo kiểu nhà cấp 4 thì còn lại nhà ở của cán bộ, giáo viên và ký túc xá sinh viên đều làm bằng tranh tre, nứa lá.
Nơi ở và làm việc của thầy là một nửa gian nhà được ngăn bằng phên nứa, vừa đủ để đặt cái giường cá nhân, cái tủ gỗ nhỏ và bộ bàn ghế. Gọi là bộ bàn ghế cho oai chứ thực ra chỉ mỗi cái bàn mộc và một chiếc ghế tựa. Khách đến chơi thì cái giường bỗng biến thành “sa lông” bất đắc dĩ.
Tôi để ý thấy dưới gậm giường chất đủ thứ, nhưng ấn tượng nhất là mớ củi khô. Hèn gì lúc sáng ngồi học trong lớp, qua khung cửa sổ nhìn ra khu bãi hoang bên cạnh, tôi thấy bóng dáng một người đàn ông, đầu đội nón lá, đang lúi húi gom nhặt từng cành cây dại đã khô. Đó là thứ mà có lẽ thầy là người duy nhất ở ngôi trường đại học này chịu khó tìm kiếm làm chất đốt, bởi thời bao cấp đến que củi cũng phải phân phối bằng tem phiếu. Chúng tôi hỏi thầy sao không ăn cơm tập thể cho tiện. Thầy bảo cái bụng mình nó "khó tính" lắm, cơm thì khi sống, khi nhão, bo bo, ngô hạt thì nhá không được, hại cái dạ dày quá nên đành phải chịu khó nấu lấy thôi. Lúc bấy giờ tôi chỉ là một cậu bé ở quê mới ra tỉnh, cái sự hiểu biết còn nông cạn, sau này ngẫm lại mới thấy xót xa. Thời ấy, cả hàng xã, hàng huyện mới có một thầy giáo dạy đại học, thế mà cuộc sống của các thầy sao cơ cực quá. Đó là những kỷ niệm thật khó phai mờ trong cuộc đời tôi. Sau này chúng tôi tiếp bước thầy, cũng lại cảnh cơm niêu nước lọ một thời gian dài. May mà đất nước đã kịp đổi thay.
Nhớ có lần thầy vào thỉnh giảng ở Đại học Tây Nguyên. Ấy là khi thầy vừa mới nghỉ hưu, anh bạn tôi làm chủ nhiệm khoa Sư phạm bên ấy muốn tạo điều kiện cho thầy kết hợp chuyện giảng dạy với thăm thú Tây Nguyên. Hôm vợ chồng tôi đến thăm, thầy khoe bữa nay nghỉ hưu rồi, thư thả mới có dịp đi xa thế này. Thầy bảo, đây là lần đầu tiên mình vô Tây Nguyên đấy, mà cũng là lần đầu tiên mình được đi máy bay. Chao ôi, tôi thầm nghĩ, cả một đời cống hiến cho sự nghiệp "trồng người", không một chút bon chen, tính toán, đến khi nghỉ hưu rồi mới được nếm chút ít hạnh phúc mà lẽ ra một giảng viên đại học lâu năm, từng nếm trải bao gian khổ khó khăn thời chiến, cũng từng là người lính như thầy lẽ ra phải được hưởng từ lâu, từ khi còn đứng trên giảng đường đại học.
Thầy lúi húi mở cặp sách, đoạn rút ra một tập giấy báo và nói với tôi, mình có cái này cho cậu. Thầy vẫn giữ cách xưng hô với học trò như thế, như cái ngày chúng tôi còn là những cô cậu mới ngơ ngác nhập trường. Tôi đón lấy và mở ra xem. Thì ra đây là những tác phẩm của thầy đăng trên tạp chí chuyên ngành. Có những bài vừa mới đăng trước khi thầy vào Tây Nguyên không lâu. Tôi xúc động thật sự, bởi ý nghĩa sâu xa của món quà độc đáo này. Thầy không tự đề cao mình, bởi đó không phải là bản tính của thầy. Thầy muốn gửi đến học trò một lời nhắc nhở mà khi xưa thầy đã từng nói trên bục giảng: Làm thầy không bao giờ được tự bằng lòng với chính mình. Sau này đọc, nghiền ngẫm những bài viết ấy của thầy, tôi mới cảm nhận được cái sắc sảo, thâm thúy của một người am hiểu văn tự cổ, văn hóa của ông cha, và càng thấu hiểu cái “thông điệp” mà thầy ngầm nhắn gửi cho mình. Ngày trước khi chớm tuổi thanh xuân, tôi học thầy những tri thức để hành nghề. Bây giờ ở cái tuổi “tri thiên mệnh” tôi vẫn học thầy, học những điều tưởng như mình đã biết. Thế hệ những người như thầy là gạch nối giữa quá khứ và hiện tại. Tri thức và nhân cách, đấy là tài sản vô giá mà thầy muốn trao lại cho các thế hệ học trò cả khi không còn đứng trên bục giảng nữa.
Chúng tôi tôn kính và khâm phục thầy, không phải ở cái oai của học hàm, học vị. Những thứ cao siêu ấy có người đeo đầy mình nhưng vẫn không khỏa lấp được khoảng trống về tri thức và nhân cách. Có lẽ những nhà giáo còn phảng phất một chút “gàn” của ông đồ xứ Nghệ xưa như thầy không thích sự phô trương. “Hữu xạ tự nhiên hương”. Khi nghỉ hưu vì tuổi tác, thầy vẫn là một nhà giáo, “nhà giáo nhân dân” đúng nghĩa của cụm từ này. Rời xa phố thị ồn ã, thầy lại về với làng quê máu thịt của mình, về với những người nông dân chân chất, quê mùa, chia sẻ câu chuyện với hàng xóm qua đọi nước, củ khoai nhưng không quên dành thời gian cho cái nghiệp mà thầy đã đeo đuổi suốt đời. Lại nghiên cứu, viết bài rồi lại lọ mọ ra bưu điện gửi đi các báo. Thầy vẫn như con tằm miệt mài rút ruột nhả tơ, cháy hết mình cho cuộc sống.
Thấm thoắt đã gần chục năm thầy đi xa. Cứ mỗi lần ngày 20-11 đến, lòng tôi lại bồi hồi nhớ những kỷ niệm xưa về người thầy hơn tôi một thế hệ. Những nhà giáo một thời như thầy đã thành “người muôn năm cũ” nhưng cốt cách tâm hồn thì luôn sống mãi trong tâm khảm các thế hệ học trò…
Nguyễn Duy Xuân
Ý kiến bạn đọc