Người thân sống giữa đại ngàn
Hồi xa rừng về biển, mỗi chiều từ dưới đồng bằng ngước mắt về miền cao, hồn tôi lại đong đầy hình ảnh những dãy núi, cánh rừng, những buôn làng, những thác nước ầm ào, những dòng sông hùng vĩ. Đại ngàn Tây Nguyên trong tít tắp mờ xa vừa như hiện hữu vừa như ảo ảnh, nhiều khi tiếp xúc bằng trực giác và đôi lúc chạm vào tâm tưởng…
Nỗi nhớ ấy âm ỉ gieo vào hồn người bởi những ký vãng, những ám ảnh, những xúc cảm từng sâu lắng khắc ghi. Có một điều cụ thể là bởi nơi đó có những người bạn các dân tộc Kơ Ho, S’tiêng, Mạ, Churu, Raglai, Êđê, M’nông… thân thương mà tôi luôn trân trọng. Những câu chuyện họ kể, những việc họ làm, những hành vi ứng xử tuyệt vời của họ với văn hóa tộc người, với trầm tích rừng già đã bồi đắp cho tôi thêm tình yêu với xứ sở này.
Trở về với cao nguyên, tôi lại được thả hồn thung thăng giữa mênh mang rực rỡ dã quỳ vàng, ngực căng với gió, đầu phơi cùng nắng và lắng nghe hơi thở gấp gáp của núi đồi trong những trận mưa núi, lũ rừng sập trời lở đất. Bàn chân lại được phủ trong màu đất bazan tươi xốp khét mùi đá cháy. Bàn tay lại được nâng niu nụ hoa cà phê, được ve vuốt ngọn cỏ lau bên đường trong những chiều theo bước chân trâu lục lạc lốc cốc về buôn. Nơi ấy buôn làng, buổi nào, giờ nào thì những người bạn núi cũng sẵn lòng đón khách như đang đợi sẵn. Cánh cửa nhà bạn không khép, cầu thang mời gọi bước chân, ngọn lửa ấm trong mỗi ngôi nhà sàn tôi đến cũng ấm áp như lửa bếp của chính nhà mình. Men rượu cần ngấm sâu vào tâm cảm, mùi rau rừng, cá suối, những hương vị đại ngàn giao hòa trong tiếng khèn bầu, tiếng đàn goong, tingning, chapi, nhịp chiêng ba, chiêng năm, và câu hát tằmpớt, yallyău, lảhlong diệu vợi. Cái đói, cái nghèo, cái đạm bạc không hề che đậy. Lời tâm sự trong đêm lửa rừng cũng giản dị, chân thật và hồn nhiên như núi, như nước…
* * *
Tôi sẽ không bao giờ quên đêm ngủ lại rừng sâu Lộc Bắc giữa sàn nứa ngôi nhà khét mùi mồ hôi, bồ hóng và đậm mùi thú nuôi của đôi vợ chồng già người Mạ, bà tên là Ka Lý còn ông là K’Noi. Đêm thanh vắng rừng sâu hôm ấy, giữa khuya tôi trở mình tỉnh giấc, vẫn thấy dáng bà Ka Lý ngồi lặng lẽ, trầm ngâm như pho tượng bên bếp lửa và ông K’Noi thì tựa lưng vào vách nứa thưng, hai bàn tay mân mê từng gân đồng lên bóng của chiếc chiêng Me và gõ thập thùng nhè nhẹ những giai điệu trầm buồn. Mới đây về lại Lộc Bắc, tôi ghé lại nếp nhà sàn cũ, bà Ka Lý và ông K’Noi đều đã theo nhau về với Yàng, để lại bếp lửa giữa sàn lạnh lẽo và dàn chiêng lặng im phủ bụi bên vách. Tôi nghĩ về hồn lửa, hồn chiêng và bùi ngùi nhớ về hình ảnh đôi vợ chồng già người Mạ trong đêm rừng Lộc Bắc…
Đại ngàn thăm thẳm. |
Mỗi lần tự ngân nga giai điệu “Giấc mơ Cha Pi” của nhạc sĩ Trần Tiến, tôi lại nhớ về người nghệ nhân làm đàn và chơi đàn chapi cuối cùng Chamalé Âu ở plei Hà Dài của người Raglai vùng Ma Nới, Ninh Thuận. Cùng với NSND Y Moan, biết bao người đã hát ca khúc viết về cây đàn chapi của người nhạc sĩ du ca, nhưng mấy ai được nghe chính người nghệ nhân làm cây đàn “ai nghèo cũng có” ấy tự hát lên giai điệu của dân tộc mình giữa rừng già Ma Nới. Tôi lặng người ngắm người đàn ông Raglai gầy gò nâng niu cây đàn, ánh mắt thẳm sâu nhìn về dòng suối Hà Dài như nhớ về dòng ký ức của tộc người ông. Chamalé Âu hát, giai điệu hồn nhiên bằng ngôn ngữ bản địa: “Hỡi bắp trắng con trai của mẹ/ Hãy để cho mẹ được bình an, no đủ/ Hỡi bắp trắng con trai của mẹ/ Đừng để nước muốn đổ, nồi muốn nghiêng…”. Lời hát cất lên, chỉ đơn giản là những tâm sự tự đáy lòng của người ở núi yêu quý hạt bắp, hạt lúa như chính con trai, con gái của mình…
Trèo lên núi Bờxa Luxiêng ở thượng nguồn Đồng Nai, tôi đã gặp tổng già làng Điểu Đoi có tuổi 112 mùa rẫy, cụ đã quên nhiều chuyện mà chỉ nhớ mình là người S’tiêng và đã từng chỉ huy đội du kích bền bỉ hàng chục năm ròng đánh Pháp, đuổi Mỹ.
Dưới chân đỉnh Lang Bian huyền thoại, tôi đã gặp lão bà Cil Ca rồi về bờ sông Đạ Nhim gặp nghệ nhân Ma Bio, nghệ nhân Ma Tham - những người phụ nữ quên ăn, quên ngủ với một niềm đau đáu giữ những điệu múa, lời ca tổ tiên truyền lại. Về cao nguyên cổ Djirinh, dưới chân núi Brayàng huyền thoại, tôi gặp già làng K’Điệp, già làng K’Tiếu - những người già Kơ Ho đã dành tất cả sinh lực còn lại của mình để trao truyền những giá trị tốt đẹp của tộc người cho lớp trẻ buôn làng.
Già làng Điểu Lên từng là một chỉ huy du kích can trường trong kháng chiến, nay cố gắng từng ngày giữ gìn truyền thống của người S’tiêng, “đấu tranh” để giữ lại tên sóc Bom Bo gắn với bài hát “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” nổi tiếng của nhạc sĩ Xuân Hồng. Giữa buôn Sa Lúk của người M’nông Gar bên dòng Krông Nô, tôi được sống cùng hoài tưởng của già làng Y Wăn R’tung khi già nhớ về người bạn lớn G.Condominas, tác giả của bộ khảo cứu “Chúng tôi ăn rừng” và người phát hiện ra bộ đàn đá tiền sử đầu tiên trên thế giới ở làng Ndut Liêng Krak.
Tôi về plei Hơma Glây để được ngồi dưới tán lá sum suê của cây xoài rừng cổ thụ trong sân nhà ông Ya Loan, rồi mê mẩn nghe người đàn ông Churu hào hoa và thông thái ấy say sưa kể chuyện lịch sử xa xưa của tộc người mình; cùng ông bà Ya Loan - Ma Wy kể câu chuyện ngày xưa, hát bài hát ngày xưa…
Buôn làng vào hội. |
Những người trẻ hơn như Krazan Plin thì tỉ mẩn nhặt nhạnh từng lời dân ca, từng câu luật tục. Nhạc sĩ Krazan Dick dù làm gì, ở đâu cũng miệt mài với câu chuyện văn hóa tộc người, âm nhạc của anh là thông điệp chuyển đến cộng đồng hãy trở về với không gian văn hóa núi rừng, như tâm hồn anh đã ngân lên da diết trong ca khúc “Giữ ấm bếp hồng”. Tôi cũng gặp tiến sĩ trẻ Cil Duin, chàng thanh niên Kơ Ho đã vượt qua những ngày đói cơm, lạt muối học thành tài để làm gương cho học trò, con cháu của mình. Một buổi trưa Di Linh, anh bạn K’Lào đã say sưa kể với tôi về câu chuyện “trốn đàn trâu đang chăn để đi thi đại học” và nhờ thế mà bây giờ được làm cán bộ làm công tác dân tộc để lo việc lớn, việc nhỏ cho buôn làng…
* * *
Họ là nhân vật của người viết báo, nhưng từ đáy lòng, tôi luôn coi họ là ân nhân của mình. Người miền núi hầu hết sống đạm bạc về vật chất, ít tiện nghi hiện đại nhưng giàu có thiên nhiên, giàu có sự trong lành; trí tuệ của họ được đắp bồi những hệ minh triết rừng và tâm hồn luôn theo chiều hướng thượng. Rừng với những bí ẩn của đại ngàn đã chi phối suy nghĩ, tâm tính và cảm xúc của người sống giữa thăm thẳm hoang dã. Núi vời vợi, phong nhiêu tạo nên sự trầm mặc trong cốt cách của người dân xứ núi. Quen với những người bạn sống trên miền cao nguyên, tôi luôn coi họ, nhất là những người già, là những bậc hiền minh. Bởi, không gian sinh tồn ấy, những tộc người, những con người ấy đã dựng nên những hệ giá trị, đã làm nên một bề dày văn hóa bí ẩn và đầy hấp lực, người đi trải nghiệm có cảm giác tưởng đi gần hết đường mà lại như mới bắt đầu cuộc hành trình.
Sơn nữ Kơ Ho. |
Trò chuyện, gặp gỡ và giao cảm với những người trên núi, tôi mới hiểu vì sao ngày xưa khi đến với Tây Nguyên, nhà dân tộc học người Pháp Jacques Dournes đã từ bỏ tôn giáo của mình, nhập thân hoàn toàn vào đời sống của đồng bào J’rai hơn 20 năm; nhà dân tộc học Condominas thì xin người già buôn Sa Luk được dựng nhà sàn và sống ba năm giữa làng như một người M’nông Gar thật sự; ông Sabatier bỏ bê việc hành chính để mê mẩn đi tìm trường ca Dam Săn với người Êđê. Những nhạc sĩ có tâm hồn phóng khoáng, phiêu du như Nguyễn Cường, Trần Tiến cứ chạm vào miền đất bazan là cảm xúc tuôn trào thành giai điệu…
Uông Thái Biểu
Ý kiến bạn đọc