Multimedia Đọc Báo in

Người Cơtu với nghề rèn truyền thống

10:04, 12/05/2019

Trong đời sống đồng bào Cơtu vùng núi Quảng Nam, nghề rèn chiếm một vị trí quan trọng. Bàn tay những người thợ rèn Cơtu tạo ra với nhiều sản phẩm có chất lượng phục vụ lao động, sản xuất và săn bắn.

Hằng năm, cứ trước mùa phát rẫy chuẩn bị gieo hạt khoảng 2 - 3 tháng, đàn ông Cơtu lại đốt lửa lò rèn rèn dao, cuốc, rựa, cào cỏ... phục vụ mùa màng. Ngày trước người Cơtu rèn dụng cụ từ quặng do họ tìm được tại địa vực cư trú. Bên cạnh quặng, những mảnh đạn, mảnh bom còn sót lại trong chiến tranh ở núi rừng, lòng sông, dưới suối cũng được họ tận dụng để rèn thành những dụng cụ bền, đẹp và sắc.

Nghề rèn đòi hỏi người thợ Cơtu phải có sức khỏe, sự khéo léo, cũng như sự kiên trì và sáng tạo mới có thể cho ra lò những sản phẩm vừa có tính ứng dụng cao vừa tinh xảo, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo riêng của dân tộc mình. Cách nhóm lò, chọn than, cách đặt lò rèn của người Cơtu cũng có những nét đặc trưng. Khác với lò rèn của các dân tộc khác trong vùng, lò rèn của người Cơtu được đắp bằng đất, mặt lò võng xuống để có thể cho than vào. Ðặc biệt, không phải than nào cũng dùng để đốt lò mà phải là than của loại cây gỗ dẻ rừng. Than từ cây dẻ cho lửa có nhiệt độ lên đến trên 1.000 độ C.

Thợ rèn Cơtu vùng núi Quảng Nam rèn dụng cụ phục vụ cho mùa sản xuất.
Thợ rèn Cơtu vùng núi Quảng Nam rèn dụng cụ phục vụ cho mùa sản xuất.

Quy trình rèn phải cần có hai người, một người kéo bơm gió để than trong lò cháy đều cung cấp nhiệt cho quá trình rèn và một người rèn. Người thợ rèn cần tính toán kỹ lưỡng mỗi khi bắt tay vào rèn một sản phẩm, phải thổi lửa sao cho sắt đỏ vừa phải, phù hợp. Khi rèn, cho quặng, sắt vào nung đỏ rực rồi nhúng vào nước để nhiệt độ giảm đột ngột làm cho sắt non hơn để dễ đập thành sản phẩm. Sau đó, người thợ phải hình dung được hình dạng của công cụ rồi dùng đột và búa cắt thành hình công cụ cần rèn. Mỗi lần đập búa bao giờ cũng một tiếng nặng, một tiếng nhẹ để tạo nên sự chính xác nơi nện búa.

Tất cả công đoạn đối với nghề rèn của đồng bào Cơtu chủ yếu dựa vào sức người là chính. Kỹ thuật rèn của người Cơtu không được ghi chép bài bản, họ nhớ trong đầu và do người trước truyền lại cho người sau. Ngoài các công đoạn đập, sửa, mài…, người Cơtu vẫn còn dùng sừng trâu trong quá trình tôi để sản phẩm có độ rắn chắc và bền hơn. Khi sản phẩm rèn xong, người Cơtu tiếp tục dũa những đoạn bị mẻ, sứt hoặc chưa đều. Họ lấy đá để mài thật kỹ cho đến khi sản phẩm sắc hơn và bong ra một lớp trắng ở đầu lưỡi thì mới thôi. Công đoạn mài không hề đơn giản, đòi hỏi người thợ phải mài thật tỉ mỉ và khéo léo thì dụng cụ mới bén như ý muốn.

Mỗi khi lò rèn đỏ lửa, luôn thu hút nhiều trẻ em trong làng đến học nghề.
Mỗi khi lò rèn đỏ lửa, luôn thu hút nhiều trẻ em trong làng đến học nghề.

Theo phong tục cổ truyền, trước mỗi mùa rèn người Cơtu thường cúng Giàng ngay tại lò và tổ chức các nghi lễ gắn với nghề rèn. Lễ cúng Giàng gồm có con gà, ché rượu cần thơm ngon, rượu tà vạt, bánh đoót (bánh sừng trâu) và do người thợ rèn chính của làng đứng ra làm lễ. Họ lấy rượu, máu gà bôi lên bệ lò, chiếc đe, hòn đá mài, chiếc búa và khấn Giàng phù hộ người thợ sẽ làm được nhiều dụng cụ lao động sắc, bén, bền.

Trước đây, các sản phẩm từ nghề rèn của người Cơtu làm ra chủ yếu để trao đổi lương thực, thực phẩm giúp bà con, anh em, họ hàng trong làng có vật dụng làm rẫy, đi rừng, săn bắn. Ngày nay, với sự phát triển của công nghiệp hiện đại, hàng loạt các công cụ được sản xuất bằng máy móc với đầy đủ các tính năng nhưng đối với người Cơtu vùng núi Quảng Nam, các sản phẩm đó vẫn không thể thay thế được các sản phẩm thủ công chất lượng, độc đáo do chính các thợ rèn Cơtu làm ra. Tuy nhiên, hiện mỗi làng cũng chỉ có một gia đình làm nghề. Mỗi lần đốt lò, những thợ rèn Cơtu luôn truyền nghề cho lớp trẻ, vì vậy nghề rèn và kỹ thuật rèn của người Cơtu đến nay vẫn được gìn giữ, bảo tồn nguyên vẹn.

 Sơn Gia Phúc


Ý kiến bạn đọc


(Video) Huyện Krông Pắc: Nhiều hoạt động nâng cao nhận thức, thúc đẩy bình đẳng giới
Tại huyện Krông Pắc, Dự án 8 về “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” được triển khai đã tác động tích cực đến đời sống, nâng cao nhận thức, thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” của phụ nữ nói riêng và người dân trong cộng đồng nói chung.