Đi chiến trường
Ðã gần 60 năm trôi qua, nhưng những ngày tháng hành quân vào chiến trường Tây Nguyên chiến đấu vẫn vẹn nguyên trong trí nhớ chúng tôi - những cựu chiến binh Tiểu đoàn bộ binh 301.
Vượt lên trên những khó khăn, gian khổ, đọng lại trong lòng chúng tôi là tình cảm đồng đội, quân dân keo sơn, gắn bó…
Đầu tháng 4/1965, chúng tôi nhận lệnh động viên về Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình) thành lập Trung đoàn 514. Những ngày sau đó, cán bộ, chiến sĩ đơn vị tập trung rèn luyện chuẩn bị vượt Trường Sơn vào Nam đánh Mỹ.
Trước ngày ra mặt trận, cán bộ, chiến sĩ đều viết đơn tình nguyện, có người chích máu mình viết huyết tâm thư: “… Dù gian khổ hy sinh cũng sẵn sàng cống hiến trọn đời vì sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Nguyện một lòng trung thành với Đảng, với Bác Hồ và nhân dân…”.
Chiều 25/6/1965, đơn vị hành quân vào Nam, lưng mang ba lô con cóc cài lá ngụy trang, súng đạn trang bị trên người, rời đất Hòa Bình hướng ra phía trước. Từ ga Văn Điển, chuyến tàu hỏa đưa chúng tôi về phương Nam. Hai bên đường nhân dân đông nghịt hướng lên đoàn tàu vẫy tay, tung khăn nón rối rít, tươi cười tiễn người ra trận.
Các chiến sĩ vận tải Tây Nguyên vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến dịch. Ảnh: Thanh Tụng - TTXVN |
Tàu chuyển quân đến Hà Trung (Thanh Hóa) phải dừng. Bộ đội đi bộ suốt một tháng trời, đêm hành quân, ngày nghỉ chân theo từng cung trạm tới Quảng Bình. Ngoài trang bị súng đạn, mỗi người mang một bao ruột tượng gạo căng ních quàng trên ba lô cao lút gáy, nặng 7 - 8 kg. Để giảm bớt trọng lượng, tôi phải cắt chiếc chiếu cá nhân lấy một phần ba lót sau lưng, lúc 10 phút giải lao trải ra, ngồi ngả đầu lên ba lô ngủ gà gật.
Khu IV trong thời điểm ác liệt, cuộc chiến đối không của quân ta với máy bay Mỹ ngày đêm lửa đạn ầm ầm. Ban đêm đèn dù sáng rực, bom chớp giật, đạn bay nhằng nhịt vạch màn đêm nhấp nhóa. Đêm đêm dòng người hối hả cuồn cuộn, quân đi bên phải đường, bên trái là thanh niên xung phong nói cười râm ran, tất cả nườm nượp đổ ra tiền tuyến. Cầu Hàm Rồng gồng mình ngày đêm chịu đựng mưa bom bão đạn vẫn nhấp nhá lửa hàn của công nhân bám sửa cầu bảo đảm giao thông. Lời ca ngân nga ngọt ngào vang xa của các chiến sĩ văn công phục vụ bộ đội và dân công trên từng cung đường bom đạn, nghe xao xuyến trong khí thế sục sôi đánh giặc.
Hành quân tới đâu cũng thấy dạt dào thắm tình quân dân. Qua từng trạm, bên ngọn đèn dầu bọc giấy đỏ lừ như quả nhót chín là các mẹ, các cô gái và thiếu niên trao bát nước cho bộ đội uống, dúi chanh, mía vào tay từng người.
Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo để đánh chiếm các đỉnh cao ở Pleiku. Ảnh: TTXVN |
Miền Trung nắng nóng, đêm gió Lào hanh hao hầm hập, có chặng đường xa dân, khô khát cả họng. Cứ 9 đêm đi thì được một lần dừng chân, ngày nghỉ chỉ chợp mắt vài ba tiếng vì trời nóng lại máy bay, bom đạn loạn trời đất.
Đoạn đường Hà Tĩnh, lần ấy trời đã sáng mà không đến được trạm, phải tản quân lên đồi sim, đồi mua lúp xúp. Các mẹ, các chị gánh nước, khoai luộc cho bộ đội. Một bà mẹ tóc hoa râm, dáng phúc hậu, giọng thân tình nói: “Các con đi làm xong việc nước rồi về qua đây thăm mẹ…”. Ký ức tôi nhớ mãi lời của mẹ.
Đến làng Ho (Quảng Bình), trạm cuối cùng đất Bắc vượt Trường Sơn. Dốc Ngàn Linh Một vời vợi trời nắng mà trên tán cây rừng nước nhỏ xuống tí tách ướt sũng như mưa, cây đá rêu bám mốc meo. Vượt dốc, đầu người sau chạm chân người trèo trước, con đường rừng mới mở vừa lối một người đi. Dốc tiếp dốc: Dốc 800, dốc Nguyễn Chí Thanh, dốc Bà Định… Hết dốc lại đèo, vực thẳm, sông sâu, suối lượn, rừng tiếp rừng xanh xanh trùng điệp. Ngày hành quân, có chỗ gặp máy bay ném bom, phóng rocket sặc mùi khói đạn, đất đá cày xới loang lổ, cây cối xơ xác tả tơi. Mỗi người tiêu chuẩn hai lon gạo gạt, bữa trưa một nắm cơm bằng nắm tay, tối nấu cháo húp cho đầy bụng. Tư trang người lính có hai bộ bà ba đen, một mũ tai bèo, chúng tôi đùa tếu: “Quần vợ, mũ con, gạo lon, nước suối, muối hầm, ngủ treo…”.
Trường Sơn nắng rát, mùa mưa liên miên trắng trời đất. Ve vắt, ruồi vàng bu bám vào người đen sì ngứa ngáy. Măng lồ ô, tre mọc vô kể, vừa đi tranh thủ bẻ măng đưa người đi sau cài vào ba lô người trước để tối dừng quân nấu ăn. Có lần cả tiểu đội say măng người lảo đảo, nôn vàng như nghệ đến hoảng! Đường hành quân qua những cây cầu khỉ, cầu treo, cầu dây song nhùng nhằng qua sông suối, vực thẳm, vách đá cheo leo. Đồng đội có ai đau ốm, thay nhau khiêng cáng theo đoàn, trường hợp nặng gửi lại trạm giao liên khi khỏe thì tìm về đơn vị. Họa hoằn mới gặp rẫy nương của đồng bào, nhìn chòi rẫy gợi nhớ nhà da diết. Không ai dám tơ hào quả ớt, trái dưa, ngọn bí… mặc dù đói ăn thiếu thốn.
Đến Lao Bảo, tới cánh rừng phía bắc Kon Tum, Tiểu đoàn 2 tách đội hình trung đoàn được điều về Tây Nguyên. Mỗi chiều dừng quân còn sớm, lính ta đi tìm rau, bắt cua cá, đào củ mài độn thêm bữa ăn. Ở cánh rừng Ea Mơ, buổi chiều còn đi cải thiện, sáng sau Lê Văn Xoang - pháo thủ ĐKZ sốt rét rồi mất, mãi mãi yên nghỉ nơi rừng khộp, mảnh đất cát non ngời đỏ. Hành quân dài ngày mang vác nặng nề, nắng mưa, bom đạn, ốm đau, đói ăn, gian khổ mà cán bộ, chiến sĩ đoàn kết san sẻ có nhau đến đích cuối cùng. Pháo thủ Nguyễn Ngọc Báu, Đinh Khắc Ân vác nòng ĐKZ 75 nặng 50 kg suốt thời gian hành quân.
Bộ đội vận tải chuyển lương thực, vũ khí ra chiến trường. Ảnh: Anh Tôn - TTXVN |
Tiểu đoàn 2 được tăng cường cho chiến trường Đắk Lắk. Cuối tháng 9/1965 đơn vị đóng quân ở điểm A tại cánh rừng Krông Kmar dưới chân Chư Yang Sin, xã Khuê Ngọc Điền H9 (nay là huyện Krông Bông). Sức khỏe bộ đội giảm sút, sốt rét nhiều, nhưng được nhân dân cưu mang, hết lòng chăm sóc. Má Tiền ở Quảng Cư chân tình nói: “Má thương các con trong này bao nhiêu thì lại thương các con ngoài Bắc nhiều lần, vì các con vào Nam đánh Mỹ, xa gia đình, cha mẹ, người thân…”. Mai Đình Phu sốt rét, chúng tôi đưa đi bệnh xá. Buổi chiều nghỉ lại nhà má Tài (xã Lễ Giáo). Phu lên cơn sốt nằm trong võng run đùng đùng. Nhìn Phu sốt, má Tài băn khoăn: “Tội nghiệp! Hỏng có hột gà cho nó ăn!”. Từ Bắc vào Nam, đến đâu người lính chúng tôi cũng được nhân dân tận tình cưu mang, đùm bọc yêu thương sâu nặng nghĩa tình.
Xuân Bính Ngọ (1966), chúng tôi đón Tết đầu tiên ở chiến trường. Tuy không đầy đủ nhưng cũng có giò chả, thịt, bánh, thức ăn đựng trong bẹ chuối bày lên bàn lồ ô, chẳng rượu mà nao nao lòng người. Để bảo vệ đồng bào vùng giải phóng ăn Tết, đêm đêm bộ đội mang vác súng đạn, lấy lồ ô bọc nilon làm giả súng lớn hành quân qua các dinh điền để nghi binh địch. Đại đội tôi bí mật đào công sự chốt gần Lễ Giáo để sẵn sàng đánh địch đổ bộ trực thăng. Cơm vắt, nước bi đông, bộ đội suốt ngày trực chiến. Nhìn những làn khói lam lãng đãng từ nhà dân tỏa lên trời hòa quyện nắng vàng nhạt lúc hoàng hôn, nghe tiếng người xôn xao náo nhiệt, lòng chúng tôi xốn xang nhớ quê nhà nơi miền Bắc.
Ngày Tết yên ổn, bộ đội được các gia đình đón về vui Xuân. Do yêu cầu tính chất nhiệm vụ chiến trường, tháng 7/1966 Tiểu đoàn 2 (còn có phiên hiệu 303) sáp nhập với một đơn vị của tỉnh Đắk Lắk mang phiên hiệu Tiểu đoàn Bộ binh 301. Những năm chiến đấu, cán bộ và chiến sĩ đơn vị trải qua bom đạn ác liệt, gian khổ hy sinh, đói cơm lạt muối, ốm đau tật bệnh nhưng luôn gắn bó thủy chung với đồng bào đồng chí, với quê hương Đắk Lắk thân yêu. Không bao giờ quên được đồng đội đã hy sinh nơi rừng Trường Sơn, chiến trường Buôn Ma Thuột, Cheo Reo, Krông Bông, Buôn Hồ… và tình cảm ấm áp, thủy chung của đồng bào Đắk Lắk đã tiếp thêm sức mạnh cho những người chiến sĩ chúng tôi đi đến tận ngày chiến thắng.
Hồi ký của Đoàn Viết Doãn
Ý kiến bạn đọc