Chiến dịch Tây Nguyên qua hồi ức của Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng
Đã 50 năm trôi qua song ký ức về những tháng ngày hoa lửa khi tham gia Chiến dịch Tây Nguyên vẫn còn đọng mãi trong tâm trí Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng (nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng Thiết giáp, nguyên Tư lệnh Quân khu 4).
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng đi bộ đội khi mới 17 tuổi, ông từng tham gia nhiều chiến trường, chiến trận khốc liệt khác nhau. Trẻ tuổi nhưng dạn dày trận mạc, năm 1975, khi mới 26 tuổi, Đoàn Sinh Hưởng vinh dự nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân khi mang quân hàm Thiếu úy, Đại đội trưởng Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 273, Quân đoàn 3. Đại đội 9 khi ấy được tăng cường thêm 1 Đại đội xe thiết giáp K63, được giao nhiệm vụ thọc sâu, tiêu diệt sinh lực địch ở Mai Hắc Đế và Sư đoàn 23 ngụy tại Chiến dịch Tây Nguyên.
Tháng 1/1975, Trung đoàn Tăng Thiết giáp 273 được lệnh hành quân vào chiến trường miền Nam. Đại đội 9 (nằm trong đội hình Trung đoàn) do sĩ quan trẻ Đoàn Sinh Hưởng làm Đại đội trưởng được lệnh bí mật vượt hơn 300 km đường rừng đến vị trí tập kết cách thị xã Buôn Ma Thuột 40 km để sẵn sàng tiến công giải phóng mục tiêu then chốt, quyết định là Buôn Ma Thuột.
Để làm nên chiến thắng, công tác chuẩn bị hết sức công phu cả về kỹ thuật và chiến thuật. Đại đội 9 được trang bị toàn bộ xe tăng T-54B thế hệ mới; được luyện tập kỹ, bảo đảm tác chiến nhanh, chính xác. Trong quá trình chuẩn bị tại vị trí tập kết, Đại đội trưởng Đoàn Sinh Hưởng có sáng kiến: Mỗi xe tăng cố định thêm 10 viên đạn pháo và mỗi xe thiết giáp K-63 chở thêm 10 viên; nâng cơ số đạn chiến đấu của xe tăng từ 34 viên lên 54 viên, bảo đảm chiến đấu được thời gian dài. Sáng kiến gia cố thêm đạn này về sau được toàn Trung đoàn 273 áp dụng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
![]() |
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng (giữa) trao các hiện vật tặng Bảo tàng Đắk Lắk. Ảnh: Tứ Mai |
Ông kể: “Ngoài việc gia cố đạn, tôi còn đề nghị cấp trên tăng cường cho mỗi xe tăng một thùng (20 quả lựu đạn), riêng xe tôi được ưu tiên hai thùng, số lựu đạn này tôi chỉ huy sử dụng hết trong buổi sáng ngày 10/3, để tiêu diệt địch khi chúng bám đội hình xe tăng. Khi xuất phát tiến công, với kinh nghiệm cơ động xe tăng trong chiến đấu, tôi đề nghị cấp trên cho xuất phát trước lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch 15 phút”.
Cuộc tiến công vào mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuột bắt đầu, Đại đội 9 do ông chỉ huy gồm 10 xe tăng T-54B và 10 xe K-63, được tổ chức thành 4 thê đội. Mỗi thê đội chở 20 cán bộ, chiến sĩ bộ binh trên xe K-63 để tiếp cận cửa mở. 5 giờ 30 phút ngày 10/3/1975, từ các hướng, xe tăng và các binh chủng cơ giới của ta mở hết tốc lực, theo đường trinh sát đã đánh dấu, xông ra khỏi rừng, tiến thẳng về phía thị xã Buôn Ma Thuột.
Theo kế hoạch chiến đấu, thê đội 1 dẫn đầu đột phá vào cửa mở, để thê đội 2 do ông trực tiếp chỉ huy thọc sâu vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Bị dồn vào chân tường, địch chống cự quyết liệt, khiến bộ đội ta thương vong khá nhiều. Hầu hết xe tăng của Đại đội đều có người bị thương, xe tăng 980 do ông chỉ huy bị trúng đạn. Ông kể: “Đồng chí Vĩnh - lái xe bị gãy tay, tôi cho xe lùi lại, đưa đồng chí Vĩnh ra tuyến sau cấp cứu và điều đồng chí Hồng từ xe 703 lên thay. Từ 5 giờ 30 phút đến 10 giờ 30 phút ngày 10/3, chúng tôi quần nhau với địch”.
Trong quá trình phát triển chiến đấu, các Trung đoàn pháo phòng không 232 và 234 đã theo sát, bảo vệ tốt đội hình tiến công của bộ binh và xe tăng của ta.
Đến tối ngày 10/3, toàn bộ lực lượng đột kích thọc sâu gồm Đại đội 9 và bộ binh áp sát Sư đoàn 23 ngụy. 6 giờ sáng ngày 11/3, Đại đội 9 sẵn sàng xuất kích thì phát hiện xe quân sự địch từ vườn cà phê tiến ra. Ngay lập tức, ông đã lệnh cho các xe nổ súng chiến đấu khiến 1 xe M-113 và 1 xe M-41 của địch bốc cháy, địch hốt hoảng bỏ chạy. Đại đội trưởng Đại đội 9 ra lệnh truy đuổi và bắt sống được Nguyễn Trọng Luật - Tỉnh trưởng tỉnh Đắk Lắk trực tiếp chỉ huy địch phản kích.
Sau đó, xe tăng Đại đội 9 tiếp tục lao lên đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 - sào huyệt cuối cùng của địch ở Buôn Ma Thuột. 10 giờ ngày 11/3, các hướng, mũi đồng loạt tiến công vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, Đại đội 9 rải ra chốt giữ những vị trí khống chế địch, hỗ trợ các chiến sĩ Tiểu đoàn 4 nhanh chóng hạ cờ chính quyền Sài Gòn, kéo cờ giải phóng lên trong niềm vui hân hoan chiến thắng…
Song Quỳnh
Ý kiến bạn đọc