Multimedia Đọc Báo in

Theo dấu vua Hàm Nghi

15:39, 24/09/2021

Núi rừng Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị) lâu nay chất chứa nhiều huyền thoại xen lẫn sự thật. Ví như những chuyện liên quan đến vua Hàm Nghi với các khu rừng bí hiểm, các kho báu của nhà vua để lại dọc đường kháng chiến chống giặc Pháp... hấp dẫn, ly kỳ mà lại nửa hư nửa thực.

Từ truyền tụng dân gian

Bà ngoại tôi và mẹ tôi là những người am hiểu miền tây Quảng Trị, nói tiếng Vân Kiều gần như người bản địa, được nhiều bà con dân tộc thiểu số gọi là "Cà lơ ba ry" (tức là kết nghĩa anh em, thân thiết như ruột thịt theo phong tục đồng bào miền núi).

Bà ngoại tôi kể rằng: Ngày xưa có một ông vua từ Huế đánh giặc Tây nhưng thua nên bị giặc đuổi theo. Vua chạy lên Hướng Hóa rồi sang Lào, dọc đường để lại nhiều của quý giữa núi rừng. Ngoại nói ở trên đó có hang đựng chén bát của vua, dân bản mỗi lần cúng bái đều đến đó khấn rồi mới vào hang mượn chén bát về làm lễ, xong việc trả lại đàng hoàng. Về sau có người không làm đúng phép tắc, lễ nghi nên cửa hang đóng lại cây cối mọc lên um tùm, làm mất dấu lối đi vào hang. Từ đó, không ai có thể vào hang được nữa.

Chiếc chuông đồng treo ở cổ con voi của vua Hàm Nghi được tìm thấy ở bản Hoong, xã Hướng Linh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.

Sau này lớn lên tôi cũng nhiều lần nghe những chuyện tương tự. Mới đây có thêm một điều càng thôi thúc tôi đi tìm sự thật. Đó là khi tôi gặp một nhà sưu tầm cổ vật có tiếng là Nguyễn Hữu Hoàng, người Huế. Anh cho biết chính mình đã tìm thấy chiếc hoàng bào thượng triều ở một bản làng thuộc Hướng Hóa. Anh đã "mai phục" 4 tháng trời ở núi rừng và nhờ bao người uy tín thuyết phục mới đem được chiếc "áo vua" quý hiếm.

Đến truyền kỳ sơn cước

Lần theo khói sương huyền thoại, tôi hỏi đường vào bản Hoong, nơi được cho xuất xứ những câu chuyện truyền kỳ được dân gian bao đời truyền tụng. Ở đây chúng tôi gặp một già làng gần trăm tuổi tên thường gọi Hồ Văn Nông (tức Hồ Văn Hà theo chứng minh thư).

Ông ngồi dậy khi nghe khách lạ bước lên nhà sàn. Khi tôi hỏi chuyện, ông trầm ngâm một lúc rồi kể: "Chuyện vua Hàm Nghi là có nghe đời trước kể lại. Vua đánh Tây rồi bị Tây đuổi theo phải đi theo đường Khe Van, Kà Reng lên đây rồi sang Lào. Gần đây có động Xoong, có nghĩa là động Vua. Hai khu rừng cạnh bản có tên là rừng Súng và rừng Miếu. Gọi là rừng Súng vì ngày xưa cất giấu súng ở đó, còn rừng Miếu trước đây có miếu thờ. Hai khu rừng này thiêng lắm, dân bản không ai dám tự tiện vào. Bà con chỉ đến đây vào những dịp cúng lễ. Như rừng Súng thì cúng gà, heo, trâu, còn rừng Miếu thì cúng một trâu bạc, một trâu đen...".

Già làng bản Hoong kể chuyện vua Hàm Nghi.

 Tôi nhìn quanh, ánh mắt dừng lại ngay khi bắt gặp những chiếc mâm đồng có bề ngoài xưa cũ xếp cạnh bàn thờ. Hỏi ra thì già cho biết, khi ông còn nhỏ đã thấy những chiếc mâm này từ ông bà để lại, được coi là bảo vật của gia đình. Tất thảy lặng người ngắm nghía, săm soi chiếc mâm đồng kỳ lạ, quý giá và hi hữu, chứa đựng nhiều bí ẩn cần giải mã. Góc nhà có một chiếc nồi đồng to chưa từng thấy, còn trên bàn thờ những vật dụng sành sứ lung linh trong khói hương đang cháy.

Đợi tiếng lao xao lặng xuống, già làng nói: "Còn chuyện này cũng liên quan đến con voi của vua Hàm Nghi. Con voi bị giặc bắn ở Xà Bai, cách đây không xa. Voi chết, một con chó cắn một miếng thịt voi ra báo cho dân bản được biết. Nhiều chuyện lắm không nhớ hết. Đi theo bố, cho coi những vật quý này mà chưa có người lạ nào được nhìn thấy đâu". Tôi hồi hộp đi theo già làng, ông trở nên tinh anh, nhanh nhẹn.

Ông mở một cánh cửa phòng nằm cạnh bàn thờ, từ từ mở tủ lấy ra hai đồ vật và giảng giải: “Đây là ống đồng, đục hai lỗ, đeo ở cổ con voi để phát ra tiếng kêu. Còn đây là bình vôi ngày xưa cũng làm bằng đồng, quý lắm". Tôi sững sờ trước những bảo vật hơn cả thế kỷ hiển hiện trước mắt mình bằng chất liệu đồng gần như nguyên vẹn trước sự tàn phá của thời gian. Ông gõ vào bình vôi và ống đồng treo ở cổ voi. Những âm thanh như vọng về từ quá khứ đánh thức cả núi rừng trong khói sương huyền tích nhắc nhở cháu con nhớ đến những người dám xả thân vì nước khi Tổ quốc lâm nguy.

Phạm Xuân Dũng


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.