Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho phụ nữ dân tộc thiểu số: Phương án giảm nghèo hiệu quả
Cùng với những chính sách hỗ trợ thiết thực khác, chủ trương đẩy mạnh công tác dạy nghề, giải quyết việc làm cho phụ nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đang là hướng đi đúng, mang lại kết quả rất khả quan giúp chị em giảm nghèo bền vững.
Dạy nghề thổ cẩm cho chị em xã Krông Na (huyện Buôn Đôn). |
Bàn tay vẫn thoăn thoắt luồn đan những sợi mây, H’Mon Niê ở buôn K’nia (xã Tân Tiến, huyện Krông Pak) nhỏ nhẹ nói: “Từ khi học được nghề đan mây tre này, gia đình em đã bớt đói nghèo. Công việc không mấy vất vả lại tận dụng được thời gian rảnh rỗi của cả nhà vào buổi tối. Nhờ vậy mà mỗi tháng nhà em có thu nhập thêm hơn 2 triệu đồng…”. Trước đây, gia đình H’Mon thuộc diện nghèo nhất trong buôn vì cha mất sớm, mẹ ốm yếu, nhà lại không có nương rẫy. Là chị cả của 6 đứa em, nên gánh nặng mưu sinh dồn hết lên đôi vai H’Mon. Hằng ngày, H’Mon và mẹ phải đi làm thuê, cuốc mướn lấy tiền nuôi cả nhà nhưng cuộc sống vẫn đói kém quanh năm. Tháng 7-2008, được tin có lớp dạy nghề đan mây tre cho lao động nông thôn ngay trong buôn của mình, H’Mon rủ thêm mấy người bạn thân cùng đi học. Sau 15 ngày làm quen với những vật liệu mây, tre… H’Mon đã có thể đan được một cái giỏ hoàn chỉnh. Sau một tháng học nghề, sản phẩm của H’Mon cùng một số bạn học giỏi khác trong lớp đã được cô giáo thu mua và trả tiền công. Kết thúc khóa học, các chị em trong lớp đều được cô giáo Huỳnh Thị Hồng Tâm, Chủ nhiệm Hợp tác xã mây tre Kim Tài cung cấp nguyên liệu, đặt hàng đan và thu mua sản phẩm. H’Mon truyền nghề lại cho mẹ và em để những lúc mưa gió hay buổi tối rảnh rỗi cả nhà lại ngồi đan, trung bình mỗi ngày mấy mẹ con cũng đan được vài sản phẩm, thu nhập khoảng 70.000 đến 100.000 đồng tiền công… Nghề mây tre đan cũng đã mang lại niềm vui và thu nhập cho cô gái tật nguyền H’Tiêm Ayun ở buôn Kwang (xã Ea Knuêk, huyện Krông Pak), hoặc gia đình H’Lỹ Ktul ở xã Ea Kao (TP. Buôn Ma Thuột) cùng nhiều chị em khác…
Từ năm 2008 đến nay, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã tổ chức được 7 lớp dệt thổ cẩm ở các huyện Krông Bông, Buôn Đôn, Lak, Cư Kuin, thu hút hơn 200 chị em dân tộc thiểu số tham gia. Sau khi học, rất đông các chị đã thường xuyên nhận hàng về dệt cho Hợp tác xã dệt thổ cẩm Tơng Bông (xã Ea Kao, TP. Buôn Ma Thuột). Trong đó, có nhiều chị đã thoát nghèo nhờ nghề mới được học này như: H’Nhiêu, H’Điết, Mí Bô Ra (xã Krông Na, huyện Buôn Đôn); Mí Thanh, H’Dhuan Niê (xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin); Mí Rêk, Mí Joan (buôn Chóa B, xã Yang Ré, huyện Krông Bông)… Một số chị như Mí Đắng, H’ Tra Ni Trac (buôn Lê, thị trấn Lak) còn liên kết với HTX Tơng Bông vừa dệt vừa bán sản phẩm tại nhà cho khách du lịch, thu nhập trên 3 triệu đồng/tháng.
Nghề chăn nuôi, nghề may, nghề trồng nấm… cũng được nhiều chị em dân tộc thiểu số tham gia hưởng ứng tại các lớp dạy nghề cho lao động nông thôn, trong đó có một số điển hình như: chị H’BLim Buôn Yă, ở buôn Tuôr A (xã Dray Sap, huyện Krông Ana) sau khi tham gia lớp học nghề trồng nấm đầu năm 2010, đã mạnh dạn vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội huyện đầu tư trồng hơn 200 bịch nấm. Sau đợt thu hoạch đầu tiên thành công, chị tiếp tục mở rộng quy mô và trồng thêm nhiều loại nấm quý như Linh Chi, Kim Châm… đến nay thu nhập của gia đình chị trung bình đạt trên 5 triệu đồng/tháng. Mô hình trồng nấm của gia đình chị H’BLim đã được nhiều chị em trong buôn và các vùng lân cận đến tham quan, học hỏi kinh nghiệm… Hay như lớp học nghề may của chị em ở xã Ea Kênh và xã Ea Knuêc (huyện Krông Pak) đã giúp hơn 30 chị tăng thu nhập, phát triển kinh tế gia đình và thoát nghèo. Gia đình các chị H’Sila Niê; H’Theo Ayun; H’Phương Kbuôr đều có hoàn cảnh hết sức khó khăn, thuộc diện nghèo của buôn Kwaih (xã Ea Kênh). Sau khi học xong lớp may vào cuối năm 2009, nay các chị đã thường xuyên có việc làm may gia công cho hộ gia đình trong vùng, thu nhập trên 1,8 triệu đồng/tháng…
H’Mon Niê (bên phải) cùng chị em buôn K’nia đan mây tre xuất khẩu. |
Những năm qua, hàng nghìn phụ nữ dân tộc thiểu số trong tỉnh đã được tiếp cận với nhiều chương trình dạy nghề như: đào tạo nghề cho lao động nông thôn; dạy nghề theo Quyết định 1956; dạy nghề theo các chương trình của Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên…
Bà H’Phong Niê, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh cho biết: nhằm hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, vươn lên xóa đói giảm nghèo, thời gian qua Hội đã chủ động khai thác nhiều nguồn vốn tín dụng để giải quyết vốn cho chị em nghèo. Đặc biệt, thông qua dự án “Hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề” do Ban Dân tộc - Tôn giáo (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam), Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) phối hợp thực hiện từ năm 2008-2010 mà hàng trăm hộ phụ nữ dân tộc thiểu số nghèo trong tỉnh đã được hỗ trợ xây dựng mô hình phát triển nghề thủ công gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững. Cụ thể như: từ năm 2009-2011, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đã mở được 15 lớp dạy nghề dệt thổ cẩm và chăn nuôi cho gần 300 chị em dân tộc thiểu số trong tỉnh. Ngoài ra, Hội Phụ nữ các cấp còn phối hợp với chính quyền vận động chị em đi học nghề ở các lớp dạy nghề cho lao động nông thôn theo Chương trình 1956. Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có khoảng trên 3.000 phụ nữ dân tộc thiểu số được đào tạo nghề qua các chương trình. Một số nghề phù hợp với lao động nữ nông thôn như chăn nuôi, trồng trọt, may công nghiệp, trồng nấm, mây tre đan, dệt thổ cẩm… đã thu hút được đông đảo chị em dân tộc thiểu số tham gia. Qua đó, các chị vừa được tham gia sinh hoạt hội, nâng cao nhận thức vừa có thu nhập ổn định từ nghề, tận dụng được lao động, nguyên liệu tại chỗ như mây tre, chỉ thổ cẩm,…
Chị H’Bla, Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Ea Knuêc (huyện Krông Pak) chia sẻ: Trong số các nghề thủ công cho chị em nông thôn thì nghề mây tre đan đã thu hút số đông chị em theo học và làm nghề thành thục. Trên địa bàn có HTX mây tre đan Kim Tài nên xã đã tổ chức được 3 lớp cho hơn 100 chị em dân tộc thiểu số tại chỗ ở 3 buôn: buôn Kreb, buôn Kang và buôn Riêng A. Sau 3 tháng học nghề, chị em đã có thêm việc làm lúc nông nhàn, nhiều chị có thu nhập ổn định từ 700.000-1,5 triệu đồng/tháng. Có nghề trong tay, các bà mẹ dạy lại cho con cái trong gia đình làm thêm, tăng thu nhập đáng kể, góp phần giải quyết việc làm tại chỗ và thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo tại địa phương.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu cho thấy: việc triển khai thực hiện các chương trình dạy nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số những năm qua cũng còn một số khó khăn. Vì hầu hết phụ nữ dân tộc thiểu số nghèo đều sống ở những vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn nên giao thông đi lại trắc trở, trình độ dân trí của phụ nữ nhìn chung thấp, nhiều chị không biết tiếng phổ thông, chủ yếu thực hành qua “cầm tay chỉ việc”, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình triển khai hoạt động xây dựng mô hình và tập huấn. Địa bàn cư trú giữa các hộ đồng bào dân tộc thiểu số không gần nhau, vì vậy việc thành lập tổ, nhóm phụ nữ ngành nghề cũng gặp khó khăn. Trình độ quản lý của các tổ, nhóm phụ nữ ngành nghề yếu, phần lớn mang tính tự quản, ảnh hưởng lớn đến việc duy trì, phát triển bền vững của tổ, làng nghề. Mức cho vay hỗ trợ kinh phí để các hộ nghèo làm nghề còn thấp (không quá 5 triệu đồng/hộ), rất khó khăn cho chị em dân tộc thiểu số trong việc làm nghề tại hộ gia đình. Chính vì vậy, để thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh giai đoạn tiếp theo, các cấp chính quyền, đoàn thể cần chú trọng hơn đến công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về ích lợi của việc trang bị kỹ năng nghề nghiệp cho phụ nữ dân tộc thiểu số; tăng mức hỗ trợ vốn vay làm nghề cho chị em. Đồng thời, có phương án tốt giải quyết đầu ra cho sản phẩm để đảm bảo phát triển nghề bền vững, tạo thu nhập ổn định cho chị em phụ nữ dân tộc thiểu số…
Ý kiến bạn đọc