Multimedia Đọc Báo in

Đồng đội ơi!

07:09, 27/07/2022

Mùa hè cách đây 57 năm, chúng tôi - những người lính trang bị súng đạn, đeo ba lô đá ong, mang gạch quanh thắt lưng ngày đêm trèo đèo lội suối, rèn luyện để chuẩn bị đi chiến trường.

Ngày 25/6/1965, từ Lương Sơn (Hòa Bình), đơn vị tôi hành quân đi “B”. Thời gian này, máy bay Mỹ ném bom đánh phá cầu cống, đường giao thông huyết mạch và các khu vực trọng điểm miền Bắc. Pháo phòng không quân ta bắn trả máy bay Mỹ quyết liệt, ngày đêm bom đạn ran trời đất.

Đoàn tàu chở quân xuất phát từ ga Văn Điển, Hà Nội đến cầu Yên (Ninh Bình) đã bị máy bay Mỹ đánh bom nên phải sang chuyến tàu phía Nam. Đến ga Hà Trung (Thanh Hóa) tàu dừng, đêm khuya bộ đội ngồi nghỉ ven đường sắt. Tàu dồn toa, đồng chí Hào quê Yên Mô (Ninh Bình), Trung đội phó Đại đội 3, mệt thiếp đi trên đường ray và hy sinh khi đầu máy xe lửa chạy qua.

Một tháng trời ngày nghỉ đêm đi, bộ đội đến làng Ho (Quảng Bình) rời đất Bắc vượt Trường Sơn. Đang mùa mưa, bộ đội hành quân qua dốc 1001, dốc 800, dốc Nguyễn Chí Thanh, dốc Bà Định, cơ man nào là đèo dốc, núi rừng trập trùng. Truyền đơn địch rải trắng lối quân đi. Những đêm yên trời lặng gió, máy bay C130 của địch è ò... quần lượn, loa phóng thanh vang vọng tiếng trẻ thơ khóc oe oe; giọng điệu nam nữ lâm li thống thiết nhằm kích động tình cảm lòng người...

Quân giải phóng bắn cháy nhiều xe thiết giáp của địch tại chi khu Đức Lập (Đắk Lắk). Ảnh tư liệu TTXVN

Đến rừng Kon Tum, Tiểu đoàn 2 tách khỏi trung đoàn tiếp tục hành quân vào Đắk Lắk. Hôm ấy, chiều muộn đơn vị dừng quân ở cánh rừng Ia Lốp, Ia Mơ, lính ta đi kiếm rau rừng, bắt cua cá cải thiện bữa ăn. Sáng hôm sau, Lê Văn Xoang quê Hà Nam, pháo thủ DKZ75, C4 chết trong cánh võng nơi Tây Nguyên lộng gió, trời đất bao la. Chúng tôi mai táng anh vào lòng đất mịn màu sắc đỏ, dưới tán cây rừng cành lá sum suê bạt ngàn xanh thẳm. Trên đường đi, bộ đội gặp máy bay Mỹ ném bom đánh phá ác liệt. Hành quân xa dài ngày vô cùng gian khổ, đói ăn, thiếu sinh hoạt nơi rừng xanh núi thẳm.

Cuối tháng 9/1965, tiểu đoàn đóng quân nơi khu rừng dưới chân núi Chư Yang Sin, xã Khuê Ngọc Điền, H9 (nay là huyện Krông Bông). Qua bao năm tháng trên chiến trường Đắk Lắk, đơn vị tôi giáp mặt quân thù trong những trận đánh đồn, chống chúng càn quét vùng giải phóng.

Đêm 6/3/1966, đơn vị đột nhập ấp Kim Châu Phát nhằm cắt đường 21 (nay là đường 26), kêu gọi bảo an, dân vệ cùng nhân dân hưởng ứng theo cách mạng. Bộ đội tập kết ở buôn Một tại rừng Krông Kmar (Khuê Ngọc Điền), hợp đồng tác chiến trên sa bàn... có các bộ phận phục vụ chiến đấu. Lực lượng ta có 2 đại đội xung kích, trang bị vũ khí súng AK, B40...

Thực lực đối phương có khoảng 100 bảo an, dân vệ, một khẩu trung liên bờ-rô-ninh, súng tiểu liên tôm-xông, tuyn, các-bin và súng trường ga-răng là vũ khí thời Pháp trang bị cho lính địa phương. Bộ đội ta xông vào ấp, quân địch ở các nhà dựa vào giao thông hào liên gia đánh trả. Nghe tiếng loa binh vận, họ nói với nhau “toàn lính Bắc”, có tiếng quát lớn: “Lính Bắc cũng đánh!”. Quả lựu đạn nổ gần tổ gọi loa, đồng chí Thự bị thương.

Tôi gắng sức cõng Thự chạy băng qua vườn chuối, súng địch bắn đạn bay sát rạt quanh mình. Trời rạng sáng, ra đến hàng rào đơn cuối cùng, tay bóp chặt sợi dây thép ở dưới, tôi lấy sức mạnh kéo thốc lên để Thự chui qua. Hai bàn tay tôi bị thép gai đâm thủng tóe đầy máu. Nguyễn Ngọc Trâm quê Gia Viễn (Ninh Bình); Nguyễn Văn Vạn quê Nam Định ở tiểu đội tôi và một số đồng chí trong đơn vị hy sinh.

Đêm 27/10/1967, Đại đội 310 tập kích khu cơ giới pháo binh Buôn Ma Thuột (nay là cơ quan Bộ đội Biên phòng tỉnh). Súng đạn nổ ran trời đất. Một chớp lửa sáng lòe, quả đạn nổ đinh tai, tôi ngất xỉu, tức ngực, điếc đặc, khi tỉnh dậy toàn thân rớm máu, mảnh đạn xé ốp che tay khẩu súng AK, xuyên thấu bàn tay tứa máu nhớp nháp.

Bốn đồng đội quanh tôi hy sinh: Nguyễn Hữu Nhấn quê Yên Lâm, Yên Mô (Ninh Bình) có người yêu làm bí thư xã đoàn; Tạ Bá Nhi quê Yên Mạc, Yên Mô (Ninh Bình) có vợ một con gái; Vũ Như Tiện quê Gia Viễn (Ninh Bình) có vợ một con gái; Lâm Đức Tuấn quê Gia Viễn (Ninh Bình) chưa vợ.

Giữa tháng 11/1967, lần ấy độ 4 - 5 giờ chiều, lính Đại đội 310 dừng quân mắc võng nghỉ ở rừng le buôn Phung đợi đến tối tập kích nhà máy điện Kô Sia, Buôn Ma Thuột. Cách nhau hơn 20 m, tôi phát hiện Nguyễn Văn Cuỗi quê Thái Bình đang trằn trọc trên võng làm cho hai đầu dây cột vào cây le rung rinh. Linh cảm điều dữ, Cuỗi nhìn tôi rồi chỉ tay xuống đất, quả thật trận ấy anh hy sinh.

Cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968, thị xã Buôn Ma Thuột rực trời lửa đỏ. Đêm ấy 6 đồng chí hy sinh: Lê Văn Kha quê Quảng Nam; Nguyễn Văn Đang quê Quảng Nam; Nguyễn Văn Long quê Quảng Nam, ngụ Quảng Cư, Đắk Lắk; Trần Văn Bính quê Quảng Nam, ngụ Vụ Bổn, Đắk Lắk; Trương Ngọc Quế quê xã Quỳnh Lưu, Nho Quan (Ninh Bình); Đặng Văn Ngưỡng quê xã Trường Yên, Hoa Lư (Ninh Bình) .

Đầu mùa khô năm 1969, hôm ấy đồng chí Trương Trừ, Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 401, tôi là Trợ lý chính trị cùng đi có liên lạc, trinh sát và bộ phận thông tin cơ yếu, báo vụ... mang đài 15 “oát” hành quân về hướng rừng để phục vụ đơn vị chiến đấu trong thị xã Buôn Ma Thuột.

Lúc 10 giờ sáng, chúng tôi đi đến phía tây buôn Rang bị địch phục kích. Tiếng mìn clây mo nổ ầm ầm, súng bộ binh chúng bắn như mưa, pháo từ thị xã nã tới, trực thăng phành phạch bu bám quần thảo sát ngọn cây uy hiếp quân ta. Những cây dầu to cao vút lưa thưa, le mọc chi chít cao khoảng 4 - 5 m xanh um.

Mỗi người cách nhau chừng 10 m, Toản là liên lạc quê Thanh Hóa đi trước dính mìn bị thương, quần rách te tua, chạy đến nói với tôi rằng anh Trừ đã hy sinh. Tôi chấn chỉnh đội hình, phân công người cáng Toản, cho anh em hành quân về vị trí đơn vị đóng quân tại rừng buôn Phơn. Hai ngày sau đơn vị cử người đến mai táng đồng chí Trừ quê Khánh Hòa, đồng chí Đạt lính trinh sát quê Thanh Hóa.

Trải qua muôn vàn khó khăn, gian khổ hy sinh, cán bộ, chiến sĩ cùng tâm nguyện: “Trung thành vô hạn, tin tưởng tuyệt đối vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi hoàn toàn”. Những lính chiến từng xông pha trận mạc, có rất nhiều kỷ niệm sâu sắc khắc đậm trong ký ức không thể nào quên.

Qua thời trận mạc, chúng tôi còn được trở về đoàn tụ với gia đình, đó là niềm hạnh phúc vô cùng. Mỗi dịp gặp lại nhau tay bắt mặt mình, cựu chiến binh chúng tôi lại ôn lại một thời lửa đạn gian khổ, hy sinh mà oanh liệt. Và rưng rưng xúc động khi nhớ đến những đồng đội đã nằm lại trên đường hành quân, trên chiến trường, dặn nhau và dặn lòng sống sao cho xứng đáng…

Hồi ký của Đoàn Viết Doãn


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.