Multimedia Đọc Báo in

Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Đoàn Khuê (1923 - 2023):

Đại tướng Đoàn Khuê - vị tướng tài ba, người cộng sản kiên trung

19:56, 28/10/2023

Đồng chí Đoàn Khuê (bí danh là Võ Tiến Trình) sinh ngày 29/10/1923 trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước tại làng Gia Đẳng, xã Triệu Tân (nay là xã Triệu Lăng), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Sớm giác ngộ cách mạng, năm 1939, khi mới 16 tuổi, đồng chí đã thoát ly gia đình, tham gia hoạt động trong phong trào thanh niên phản đế và trở thành Bí thư thanh niên phản đế phủ Triệu Phong. Khi phát xít Nhật vượt biên giới Trung – Việt tiến vào chiếm đóng Lạng Sơn (1940), nhân dân Bắc Sơn đã vùng lên khởi nghĩa.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Trị, Đoàn thanh niên phản đế Triệu Phong tổ chức rải truyền đơn kêu gọi nhân dân hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn đánh đuổi Nhật – Pháp. Năm 1940, đồng chí Đoàn Khuê bị địch bắt, bị kết án tù ở nhà lao Quảng Trị, sau đó bị đưa đi đày ở Buôn Ma Thuột.

Những năm 1942 – 1944, là thành viên của tổ chức “Ủy ban vận động cách mạng” trong nhà lao, đồng chí đã cùng Ban lãnh đạo “Ủy ban vận động cách mạng” tổ chức thành công nhiều cuộc đấu tranh phản đối hành động đánh đập dã man; đòi cải thiện sinh hoạt đối với tù nhân, thu nhiều thắng lợi và tổ chức được nhiều đợt vượt ngục thành công.

Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê thăm và làm việc tại Quân khu 5 (năm 1996). Ảnh: TTXVN
Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê thăm và làm việc tại Quân khu 5 (năm 1996). Ảnh: TTXVN

Sau khi ra tù, về hoạt động gây cơ sở cách mạng ở Quảng Bình, đồng chí đã góp phần tích cực vào cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân tỉnh Quảng Bình thắng lợi và được cử làm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Bình.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Xứ ủy và chính quyền Trung Bộ thành lập ủy ban quân chính Khu C, do đồng chí Chu Huy Mân làm Chủ tịch, đồng chí Đoàn Khuê làm ủy viên quân sự.

Khi thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, nhân dân Nam Bộ và Nam Trung bộ vùng lên kháng chiến, đồng chí Đoàn Khuê được giao nhiệm vụ chỉ huy một đơn vị hoạt động ở địa bàn Liên khu 5. Sau đó, đồng chí lần lượt được cử giữ các chức vụ Chính trị viên, Bí thư Hiệu ủy Trường Lục quân Quảng Ngãi; Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy các Trung đoàn 69, 73, 78, 126, 84; Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 108, rồi Phó Chính ủy Sư đoàn 305 – sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung bộ. Là một cán bộ tận tụy, sâu sát cơ sở, đồng chí đã cùng cấp ủy lãnh đạo các đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, với tư duy nhạy bén, sâu sát thực tế, luôn đi sâu nghiên cứu, nắm vững tư tưởng và nghệ thuật quân sự của Đảng, trong chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị, đồng chí luôn chăm lo xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, quan tâm cơ sở Đảng, coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, chú trọng bồi dưỡng ý chí cách mạng cho cán bộ chiến sĩ.

Đầu năm 1954, trên cương vị Chính ủy Trung đoàn 108 – đơn vị chủ lực cơ động đầu tiên của Liên khu 5, đồng chí cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, Ban Chỉ huy Trung đoàn, với những sáng kiến, quyết định kịp thời chính xác, chỉ đạo các lực lượng giành thắng lợi: tiêu diệt đồn Măng Đen – cứ điểm kiên cố, trận then chốt của chiến dịch giải phóng Kon Tum.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Phó Chính ủy Quân khu Đoàn Khuê đã có những cống hiến to lớn trong công tác phát động tư tưởng, xây dựng ý chí chiến đấu cho các lực lượng vũ trang quân khu “quyết đánh, quyết thắng giắc Mỹ xâm lược”; cùng với các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Khu 5, Quân khu 5 bám sát chiến trường; thành lập 3 Sư đoàn 3, 2, 1.

Triển lãm giới thiệu hơn 200 hình ảnh, tài liệu, hiện vật về những công lao, đóng góp to lớn của Đại tướng Đoàn Khuê tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ảnh: VGP
Triển lãm "Đại tướng Đoàn Khuê - Nhà chính trị quân sự xuất sắc", nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Đoàn Khuê (29/10/1923 - 29/10/2023) tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ảnh: VGP

Có lực lượng chủ lực mạnh, đồng chí góp phần cùng với tập thể Khu ủy lãnh đạo quân và dân Khu 5 trở thành địa phương “đi đầu diệt Mỹ” với những trận đánh, chiến dịch nổi tiếng trong lịch sử: Núi Thành (26/5/1965); Ba Gia (29/5 đến 20/7/1965); Vạn Tường (18/8 đến 19/8/1965); Plei Me (19/10 đến 26/11/1965); Đồng Dương (17/11 đến 18/12/1965).

Tháng 7/1974, trong trận đánh Nông Sơn – Trung Phước, đồng chí chỉ đạo thực hiện chiến thuật “bao vây đánh lấn, tấn công dứt điểm”. Chiến thắng Nông Sơn – Trung Phước tạo nên thế và lực mới cho ta trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Khu 5.

Trong chiến dịch Xuân 1975, đồng chí xử lý nhiều tình huống phức tạp, quyết đoán sắc sảo, góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, tạo đà cho cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975.

Đất nước thống nhất, trên cương vị Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5, đảm nhiệm địa bàn chiến lược Nam Trung Bộ, đồng chí Đoàn Khuê cùng Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu có phương án phòng thủ phù hợp với tình hình mới.

Cùng thời điểm này, lực lượng FULRO vẫn ngoan cố tìm mọi cách chống đối ta. Đồng chí Đoàn Khuê tiến hành nghiên cứu sâu về nguồn gốc, quá trình hình thành và tính chất hoạt động của chúng, nên chuyển nhận thức “truy quét FULRO” thành vấn đề “giải quyết FULRO”. Từ đó, vấn đề “giải quyết FULRO” ở Quân khu 5 đi đúng hướng, có hiệu quả cao.

Năm 1979, đồng chí cùng tập thể Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tổ chức Trường Quân chính 2 ở Tây Nguyên (nay là Trường Thiếu sinh quân dân tộc Quân khu 5). Đó là sáng kiến có tầm chiến lược, thể hiện rõ chính sách dân tộc và chiến lược cán bộ, chiến lược con người của Đại tướng Đoàn Khuê.

Đã có hàng nghìn cán bộ phân đội bộ binh và binh chủng được bổ túc, đào tạo ngắn hạn, hàng nghìn thiếu sinh quân được nuôi dưỡng và trưởng thành từ mái trường này, đáp ứng yêu cầu về cán bộ quân sự cho địa bàn chiến lược Tây Nguyên nói riêng và lực lượng vũ trang Quân khu 5 nói chung.

Đối với nhiệm vụ giúp bạn Campuchia, năm 1979, Quân khu 5 đảm nhiệm một hướng chiến lược quan trọng. Đồng chí trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch, khẩn trương chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị chiến trường, chỉ huy đánh tạo thế chiến dịch đến kết thúc chiến dịch đều giành thắng lợi, đạt yêu cầu của Bộ Quốc phòng đề ra.

Năm 1983, đồng chí được bổ nhiệm chức Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719. Đồng chí nhiều lần xuống các mặt trận kiểm tra công tác chuẩn bị, lắng nghe ý kiến của cán bộ, chiến sĩ để cùng tập thể xác định phương án đánh địch tối ưu, tạo điều kiện cho các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sau mỗi chiến dịch, đồng chí lại trực tiếp xuống dự tổng kết rút kinh nghiệm.

Từ tháng 12/1986 đến tháng 1/1998, đồng chí được Đảng và Nhà nước phân công giữ các trọng trách: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 719, Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp nước bạn Cam-pu-chia, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ủy viên Thường vụ Đảng ủy rồi Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. 

Đại tướng Đoàn Khuê là ủy viên Trung ương Đảng khoá IV đến khóa VIII; là ủy viên Bộ Chính trị các khoá VI, VII, VIII; là đại biểu Quốc hội các khoá VII, VIII, IX và X. Đồng chí được Đảng và Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng năm 1974 và Đại tướng năm 1990.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, đồng chí Đoàn Khuê cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đề xuất chủ trương đúng đắn và tổ chức thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới, chăm lo xây dựng quân đội về mọi mặt theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”, có nhiều đóng góp trong chỉ đạo công tác tổng kết Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng.

Đại tướng Đoàn Khuê còn để lại ấn tượng đẹp cho cán bộ, chiến sĩ với phong cách làm việc dân chủ, khoa học, sâu sát cơ sở, luôn chăm lo cho sự tiến bộ của cấp dưới, xứng đáng là người lãnh đạo, chỉ huy xuất sắc, có uy tín lớn của Quân đội ta. Đồng chí là tấm gương tiêu biểu để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong toàn lực lượng vũ trang noi theo.

Lan Anh (tổng hợp)
 


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.