Multimedia Đọc Báo in

Chuyện về liệt sĩ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam

11:47, 26/12/2021

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (VNTTGPQ) được thành lập vào ngày 22/12/1944. Đúng hai ngày sau, vào đêm 24/12, những người lính của đội đã đánh trận đầu tiên lấy ngay Đồn Phai Khắt, rồi thừa thắng xông lên, sau một ngày đêm hành quân thêm 25 km nữa để chiếm luôn Đồn Nà Ngần.

Hai trận đánh đầu tiên ấy đã khiến thanh thế của đội VNTTGPQ lớn mạnh hơn, lực lượng ngày càng được bổ sung, trong đó có đội du kích của Chỉ huy Đàm Quang Trung sáp nhập vào đội VNTTGPQ. Hơn một tháng sau chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, đầu tháng 2/1945 trận đánh thứ ba của đội quân đầu tiên chính là Đồn Đồng Mu, một đồn binh khá hiểm yếu trấn giữ một vùng rộng lớn để khống chế phong trào cách mạng ở các huyện Thông Nông, Bảo Lạc…

Trong trận đánh Đồn Đồng Mu, chiến sĩ Hoàng Văn Nhủng (bí danh Xuân Trường) đã hy sinh. Tấm bằng Tổ quốc ghi công của liệt sĩ Hoàng Văn Nhủng (Xuân Trường) được Thủ tướng Chính phủ trao năm 1961 với số hiệu HX 759b chứ không mang số 01, nhưng quân sử Việt Nam công nhận anh là liệt sĩ đầu tiên của quân đội.

Di tích lịch sử đồn Đồng Mu - nơi hy sinh của liệt sĩ Hoàng Văn Nhủng.

Hơn 75 năm sau trận đánh ngày ấy, chúng tôi tìm lối lên lại Đồn Đồng Mu xưa, nơi liệt sĩ Hoàng Văn Nhủng – người lính đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam hy sinh. Cũng như những công trình ở rừng Trần Hưng Đạo đang nâng cấp để trở thành di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia, di tích Đồn Đồng Mu cũng được tôn tạo thành khu tưởng niệm khang trang thay cho nhà bia cũ đã xuống cấp. Từ trên đồi cao, tại chính vị trí đồn xưa, Bí thư Đảng ủy xã Xuân Trường Tô Hữu Quanh bảo: “Từ đây các anh có thể thấy hết sự hiểm yếu của Đồn Đồng Mu với toàn bộ vùng đất này, chính vị thế như vậy đã khiến trận đánh Đồng Mu đêm mùng 4 rạng ngày mùng 5/2/1945 trở nên cam go. Trong bản vẫn còn người biết về trận đánh năm ấy”.

Từ di tích Đồn Đồng Mu, chúng tôi xuống bản Nà Đoỏng gặp cụ Tô Đức Ninh và cụ bà Lánh Thị Sấn. Cụ Sấn kể: “Cái đồn hồi đó Tây nó xây to lắm, có một tên quan Ba từ Bảo Lạc lên, ngoài quan Ba chỉ huy có mấy thằng lính Tây nữa, tên hai thằng lính Tây là “Bop Lô” và “Đờ Ri”, ta còn nhớ rõ. Rồi lính khố đỏ cũng nhiều lắm, phải đến ba bốn chục người. Đồn Đồng Mu hồi đó ta còn nhớ, mỗi phiên chợ nó bắt dân mang thịt lợn và rau lên nộp cho nó mà, có cái lô cốt bằng đá, nhà cũng xây, đi vào đồn phải qua bốt gác, hàng rào vây tre gai rất dày. Khi quân của tướng Giáp từ bên Nguyên Bình qua đánh đồn chỉ ít người dân biết được thôi, bí mật mà, ta không biết quân ta đánh thế nào nhưng đồng chí Xuân Trường hy sinh thì dân Đồng Mu ai cũng biết”.

Ở Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Bảo Lạc vẫn có nấm mộ ghi tên liệt sĩ Xuân Trường.

Câu chuyện chắp nhặt về trận đánh đồn năm xưa đã được hai cụ Tô Đức Ninh và Lánh Thị Sấn chắp nối hồi ức như thế. Còn sự hy sinh của Xuân Trường - người liệt sĩ đầu tiên của quân đội biết tìm gặp ai? Hồi lâu, anh Tô Hữu Quanh mới vỗ trán: “May quá, hồi tướng Đàm Quang Trung về đây có kể lại câu chuyện này, anh em ghi lại và đưa vào địa chí xã, để tôi về tìm cho các anh”. Tập địa chí xã Xuân Trường chỉ dày đúng 20 trang A4 nhưng vô cùng sinh động. Và đáng tin cậy hơn khi hai người thực hiện cuốn địa chí này là ông Tô Đức Năng, nguyên thiếu tá quân đội và ông Mông Văn Đinh, nguyên Phó Chủ tịch huyện Bảo Lạc.

Trận đánh Đồn Đồng Mu và cái chết của tiểu đội trưởng Xuân Trường được ghi lại chi tiết trong tập địa chí: “Đêm 4/2/1945 quân ta tổ chức đánh bằng ba mũi, trong đó có một mũi do đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy bí mật luồn sâu áp sát, kết hợp với một số lính đồn đã được ta giác ngộ từ trước, thọc sâu ngay vào đồn. Trước sự tấn công bất ngờ, bọn lính đồn mở đường máu tháo chạy, một toán lính chui ra theo đường hào, gặp ngay mũi của Đàm Quang Trung hung hăng chống cự, bị đánh bật trở lại. Xuân Trường lúc này là tiểu đội trưởng, lao lên phục kích ở chân tường của ngôi nhà địch vừa tháo lui ẩn nấp. Không ngờ từ trong nhà, nhóm lính này leo lên phía tường cao và phát hiện ra chỗ phục kích của Xuân Trường liền từ trên cao bắn xuống, đồng chí Xuân Trường hy sinh. Địch co cụm lại khu nhà xây chống cự quyết liệt.Trời sắp sáng, quân ta tạm rút. Quân địch trong Đồn Đồng Mu cũng sợ bị tiêu diệt nên tập trung những đạn dược, vũ khí không mang theo được tẩm dầu đốt rồi bỏ chạy. Ngay khi địch bỏ chạy khỏi đồn, Việt Minh hô hào nhân dân xung quanh đồn lên dập lửa, thu hồi được một số vũ khí để trang bị thêm cho anh em trong đơn vị. Trận đánh Đồn Đồng Mu đã tiêu diệt hai lính địch, thu nhiều súng đạn, bên đội VNTTGPQ, người lính hy sinh duy nhất là Xuân Trường, tiểu đội trưởng”. 

Trong danh sách đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được khắc trên tấm bia ở khu di tích rừng Trần Hưng Đạo, tên của chiến sĩ Hoàng Văn Nhủng (bí danh Xuân Trường) được xếp số 26 theo thứ tự. Sinh ở xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng (tỉnh Cao Bằng), chàng trai dân tộc Tày sớm tham gia cách mạng. Giữa năm 1940, Hoàng Văn Nhủng được đưa sang học Trường quân sự Hoàng Phố (Liễu Châu, Trung Quốc) và đầu năm 1944 về nước, hoạt động ở vùng Hà Quảng. Tháng 12/1944 anh được chọn vào đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và hy sinh trong trận đánh Đồn Đồng Mu. Ngay sau khi chiến sĩ Xuân Trường hy sinh, xã Đồng Mu được Việt Minh làm chủ và đổi tên thành xã Xuân Trường. Sau này Xuân Trường được tách thành 3 xã Xuân Trường, Đồng Mu và Hồng An. Năm 1981, hai xã Xuân Trường, Đồng Mu lại hợp nhất và mang tên Xuân Trường cho đến ngày nay.

 

Sau trận đánh, liệt sĩ Xuân Trường được chôn cất tại cánh đồng ngay dưới chân Đồn Đồng Mu, và sau này, khi xây dựng Nghĩa trang huyện Bảo Lạc, phần mộ của liệt sĩ Xuân Trường mới được cất bốc ra nghĩa trang huyện lỵ rồi sau đó đưa về quê nhà của anh ở Sóc Hà (huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Hiện nghĩa trang liệt sĩ huyện Bảo Lạc vẫn có một ngôi mộ gió đề tên người liệt sĩ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam nằm giản dị trên ngọn đồi trông xuống toàn cảnh thị trấn Bảo Lạc.

Lê Đức Dục


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.