Những doanh nghiệp đứng vững trong khó khăn
Hàng loạt chi phí đầu vào như điện, xăng dầu, nguyên liệu, lãi vay ngân hàng… tăng cao khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp (DN) trở nên khó khăn. Trong bối cảnh đó, các DN đã triển khai nhiều biện pháp sáng tạo, phù hợp với thực tiễn nên đã hạn chế thấp nhất những tác động của việc tăng giá, duy trì sức cạnh tranh trên thị trường; tạo ra thời cơ để phát triển.
Chi nhánh Viettel Dak Lak: Biến khó khăn trong khủng hoảng kinh tế thành thời cơ trong kinh doanh
Theo Phó Giám đốc Chi nhánh Viettel Dak Lak Trần Văn Thuân, trong giai đoạn khủng hoảng hiện nay, các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông nói riêng đều gặp khó khăn. Tuy nhiên, Viettel luôn quán triệt quan điểm “khủng hoảng cũng là cơ hội của doanh nghiệp”.
Làm tốt công tác chăm sóc khách hàng là một trong những biện pháp giúp Viettel Chi nhánh Dak Lak vượt qua khủng hoảng. (Ảnh: G.N) |
Có thể nói rằng, xác định khó khăn trong bối cảnh vật giá tăng cao để vượt qua đã được Viettel Dak Lak thực hiện khá thành công. Nhờ đó, đơn vị luôn đứng vững trong cơn lốc khủng hoảng hiện nay, đáp ứng tốt yêu cầu sản xuất kinh doanh và góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng tại địa phương của một đơn vị kinh tế quân đội.
Công ty TNHH MTV Buôn Wing, huyện Cư Mgar: Đứng vững trong khó khăn nhờ đa dạng cây trồng
Những năm gần đây, màu xanh của cây công nghiệp, của rừng trồng đang trở lại trên diện tích hơn 3.400 ha mà trước đây được đánh giá là rừng nghèo của Công ty TNHH MTV Buôn Wing (Lâm trường Buôn Wing cũ). Từ năm 1994, thực hiện chủ trương của tỉnh cho chuyển đổi đất rừng nghèo thành đất sản xuất, công ty đã đầu tư trồng cây cao su, điều, tiêu nhằm phát huy hiệu quả kinh tế vùng, tạo công ăn việc làm cho lao động địa phương, góp phần làm thay đổi diện mạo của xã vùng 3 (xã Ea Kiết) nghèo khó. Từ những khó khăn ban đầu do thiếu vốn, lao động, kỹ thuật - có lúc tưởng chừng như “đứt gánh giữa đường” - song, nhờ sự đoàn kết nhất trí cao của CBCNV công ty, cùng tài khéo léo xoay xở, huy động vốn, thậm chí có khi nhiều tháng liền, Ban giám đốc công ty không hưởng lương để tích cóp từng đồng vốn… nên hoạt động của công ty được duy trì và phát triển. Cùng với đó, công ty phối hợp với chính quyền địa phương vận động hàng trăm hộ dân trong vùng liên kết trồng cao su, tiêu, điều theo phương án bà con bỏ công sức lao động, công ty đầu tư 100% vốn (cây trồng, phân bón, kỹ thuật chăm sóc) lợi nhuận ăn chia theo thỏa thuận. Ông Trần Anh Sơn, Giám đốc Công ty cho hay: những ngày đầu liên kết trồng cây với người dân, toàn bộ CBCNV trong công ty không ngại vất vả, vật lộn cả ngày với nắng, mưa để hướng dẫn bà con kỹ thuật trồng, chăm sóc cây. Cùng với việc hàng năm vào dịp lễ tết, công ty luôn tổ chức thăm hỏi, tặng quà những gia đình khó khăn, neo đơn; thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu giữa CBCNV công ty với người dân trên địa bàn nhằm thắt chặt mối đoàn kết vì lợi ích chung.
Anh Trần Anh Sơn, Giám đốc Công ty TNHHMTV Buôn Wing trong lô cao su của công ty. (Ảnh: L.T) |
Công ty TNHH sản xuất và dịch vụ Đắc Hải: Uyển chuyển trong sản xuất các mặt hàng
Công ty TNHH sản xuất và dịch vụ Đắc Hải (Cụm Công nghiệp Tân An, TP. Buôn Ma Thuột) là đơn vị chuyên sản xuất các mặt hàng bằng gang. Những tháng đầu năm 2011, lãi suất ngân hàng, giá nhân công và nguyên vật liệu đầu vào liên tục tăng cao trong khi cả nước đang quyết liệt thực hiện cắt giảm đầu tư công… nên nhiều công trình, dự án phải ngừng hoặc giãn tiến độ, khiến đầu ra sản phẩm do DN sản xuất bị ảnh hưởng nặng nề. Nhiều hợp đồng lúc đầu tính toán có lãi, nhưng khi kết thúc lại không còn lãi do thời gian thực hiện quá lâu, lợi nhuận đã bị lãi suất ngân hàng hoặc trượt giá “ăn” hết. Để khắc phục tình trạng này, DN đã triển khai khá nhiều biện pháp tiết kiệm chi phí, trong đó đầu tư công sức, tiền của nghiên cứu lại thị trường tiêu thụ, chuyển từ chuyên sản xuất các mặt hàng phục vụ cho những công trình lớn (nắp cống thoát nước, cột đèn, cột điện…) sang sản xuất phụ kiện máy kéo nhỏ, bơm nước, bơm hút cát, máy xay xát cà phê, hồ tiêu… cung cấp cho các đại lý và các chợ. Sau thời gian ngắn sản xuất theo hướng mới cho thấy: mặc dù giá trị hợp đồng, đơn hàng không lớn, nhưng bù lại số lượng nhiều hơn, nên vẫn duy trì được việc làm và thu nhập cho người lao động, cán bộ công nhân của DN phải làm việc hết công suất vẫn không đủ hàng để cung ứng cho các đại lý, tiểu thương ở chợ. Chỉ riêng khách hàng ở TP. Hồ Chí Minh cũng đã tiêu thụ trên 30 tấn sản phẩm/tháng, nhưng DN chỉ đáp ứng được khoảng 2/3 nhu cầu.
Khách hàng (bên trái) tìm hiểu, đặt hàng tại Công ty TNHH sản xuất dịch vụ Đắc Hải. (Ảnh: L.N) |
Chi nhánh Công ty CP Bia Sài Gòn-miền Trung tại Dak Lak: Chú trọng áp dụng giải pháp hữu ích và đa dạng hóa sản phẩm
Có thể nói, từ ngày chính thức đi vào hoạt động (tháng 5-2007) đến nay, Chi nhánh Công ty CP Bia Sài Gòn-miền Trung tại Dak Lak liên tục đối mặt với những khó khăn khách quan: năm 2008, sau hơn 1 năm bước vào sản xuất giai đoạn I (công suất 25 triệu lít/năm) đã bị tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (giá cả vật tư, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất tăng gấp nhiều lần) đã ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của Chi nhánh. Đến tháng 9-2009, sau khi dự án nâng công suất thiết kế lên 70 triệu lít/năm hoàn thành, Chi nhánh lại gặp phải khó khăn mới, do công ty mẹ giao kế hoạch sản xuất chỉ bằng 87% công suất thiết kế. Bước vào năm 2011, trong khi giá cả nguyên vật liệu, lãi suất ngân hàng lẫn tiền thuê đất tăng cao, thì Chi nhánh chỉ được giao kế hoạch sản xuất năm tương đương 72% công suất thiết kế.
Một góc dây chuyền sản xuất bia chai serepok. ( Ảnh: L.N) |
Công ty TNHH Một thành viên XNK 2-9 Dak Lak: Thành công nhờ chủ động nắm bắt thị trường, xây dựng vùng nguyên liệu
Một thực tế nhiều năm qua mà các công ty, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê trong nước gặp phải, đó là bị các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp cạnh tranh thu mua nguyên liệu xuất khẩu làm cho không ít doanh nghiệp trong nước lâm vào tình cảnh khó khăn, bị động, “bể” hợp đồng. Nhưng với Công ty TNHH Một thành viên XNK 2-9 Dak Lak, nhờ có một chiến lược phát triển hợp lý nên đã dễ dàng vượt qua thách thức.
Hội thảo tập huấn về sản xuất cà phê bền vững cho các hộ trồng cà phê liên kết . ( Ảnh: L.V) |
Các doanh nghiệp này sau đó bán lại cho nhà rang xay nước ngoài khác. Vì thế, sản phẩm cà phê của công ty khi đến được tay nhà rang xay đã phải trải qua rất nhiều khâu trung gian, nên chất lượng, thương hiệu cà phê của đơn vị không được biết đến, các đơn đặt hàng của công ty bị lép vế. Từ năm 2008, dự báo thị trường cà phê sẽ có nhiều biến động, nếu tiếp tục giữ lối làm ăn truyền thống, sản phẩm cà phê của công ty khó có thể cạnh tranh được trên thị trường, nhất là với các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Vì lẽ đó, lãnh đạo công ty đã đưa ra nhiều chiến lược kinh doanh mới, trong đó tập trung đầu tư lớn cho xây dựng nhà xưởng, sân phơi, công nghệ chế biến cà phê ướt, dây chuyền sơ chế hiện đại hàng chục tỷ đồng... Mặt khác, công ty cũng chủ động tìm đối tác là các nhà rang xay nước ngoài và bán trực tiếp sản phẩm cho họ mà không qua trung gian, nhờ vậy tỷ lệ sản phẩm cà phê công ty bán trực tiếp cho nhà rang xay nước ngoài đã đạt 35%. Song song với đầu tư công nghệ chế biến, công ty cũng tăng cường nâng cao chất lượng nguyên liệu cà phê đầu vào bằng cách liên kết với với nông dân các địa phương trong tỉnh mở rộng vùng nguyên liệu cà phê bền vững đạt các chứng nhận UTZ, 4T… Chưa kể hàng năm công ty còn tổ chức 3-5 cuộc hội thảo về sản xuất cà phê bền vững, hàng tháng tổ chức gặp mặt các hộ trồng cà phê liên kết để trao đổi kinh nghiệm, tư vấn về các vấn đề liên quan đến sản xuất cà phê bền vững…, đồng thời công ty cũng bảo đảm mua 100 % sản phẩm cà phê liên kết đạt chất lượng với giá cao. Hiện tại, công ty đã xây dựng được vùng nguyên liệu sản xuất cà phê bền vững 2.484 ha; tăng cường củng cố lại hệ thống thu mua, bảo đảm hàng năm thu mua đạt từ 80.000 – 100.000 tấn cà phê nguyên liệu.
Ý kiến bạn đọc