Multimedia Đọc Báo in

Làm thủy điện ở Tây Nguyên: Được và mất

09:20, 05/09/2012

Những hệ lụy nảy sinh từ các DATĐ được quy hoạch, xây dựng trên địa bàn Tây Nguyên cho thấy rõ nhất là vấn đề suy giảm môi trường (rừng, đất đai sản xuất) và theo đó là cuộc sống của hàng trăm nghìn hộ dân bị đảo lộn, thậm chí gặp rất nhiều khó khăn…

Thủy điện Buôn Kuốp (Dak Lak) đã hòa vào lưới điện quốc gia, góp phần vào việc phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên, nhưng lại lấy đi không ít đất rừng và đất sản xuất.
Thủy điện Buôn Kuốp (Dak Lak) đã hòa vào lưới điện quốc gia, góp phần vào việc phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên, nhưng lại lấy đi không ít đất rừng và đất sản xuất.

...và mất

Ngoài những mặt tích cực đã nêu, việc phát triển thủy điện tại Tây Nguyên cũng gây nên những tác động tiêu cực cho môi trường và xã hội trong khu vực. Theo báo cáo của các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Dak Nông và Dak Lak cũng như các chủ đầu tư các DATĐ, trong số 163/287 công trình lớn nhỏ có tổng công suất 6.197 MW được quy hoạch xây dựng tại đây đã làm cho gần 25.300 hộ dân bị ảnh hưởng, trong đó có hơn 5.650 hộ buộc phải di dời, tái định cư. Các DATĐ này cũng chiếm dụng hơn 65.239 ha đất các loại (tương đương với 1,2% tổng diện tích đất tự nhiên toàn khu vực), trong đó có 452 ha đất ở, hơn 742 ha đất trồng lúa, gần 22.000 ha đất trồng hoa màu, hơn 922 ha đất rừng đặc dụng, 8.120 ha đất rừng phòng hộ và gần 7.600 ha đất rừng sản xuất. Theo đánh giá của ngành nông nghiệp các tỉnh Tây Nguyên, bình quân mỗi MW điện sản xuất được tại khu vực này đã làm ảnh hưởng 4,08 hộ dân, trong đó phải di dời 0,94 hộ  và chiếm dụng khoảng 10,53 ha đất các loại. Ngoài ra phải sử dụng hơn 10.371 ha đất để bố trí tái định cư, định canh cho người dân trong vùng dự án. Hơn nữa, do chủ yếu được xây dựng trên các sông, suối có độ dốc lớn, địa hình bị chia cắt mạnh nên hầu hết các DATĐ (nhất là các dự án vừa và lớn như Plei Krông, Buôn Tua Sra, Ka Nak và Đồng Nai 3) đã chiếm dụng đất sản xuất của người dân khá cao, gây xáo trộn lớn trong đời sống sinh hoạt, sản xuất và làm suy giảm diện tích đất canh tác cũng như đất rừng trên địa bàn.

Mặt khác, trong quá trình tích nước, xả lũ hoặc vận hành phát điện, một số dự án đã gây tác động tiêu cực đối với vùng hạ du. Chẳng hạn, khi tích nước hồ chứa An Khê-Ka Nak (Gia Lai) lần đầu vào cuối năm 2010, do mực nước chưa đạt đến ngưỡng công trình xả, kết hợp với tình hình thủy văn khô kiệt và nước thải chưa được xử lý triệt để của một số cơ sở công nghiệp quanh vùng đã làm cho nguồn nước sinh hoạt, sản xuất khu vực thị xã An Khê và vùng hạ du bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trước thực trạng đó, UBND tỉnh Gia Lai đã yêu cầu các cơ quan chức năng và EVN xả lượng nước thường xuyên cho vùng hạ du với lưu lượng 4 m3/giây (trước đó chỉ xả lượng nước từ 2,2-3 m3/giây) nhằm khắc phục vấn nạn ô nhiễm môi trường. Được biết, việc xả lũ tiểu mãn vào cuối tháng 5-2011 của DATĐ này không đúng qui định cũng đã làm thiệt hại lớn tài sản của người dân trong khu vực, nên mới đây Bộ Công thương đã chỉ đạo EVN nghiêm túc rút kinh nghiệm và thực hiện việc bồi thường cho người dân.

Mới đây, việc chuyển nước sang lưu vực khác để phát điện tại các DATĐ An Khê-Ka Nak, Đại Ninh, Đa Nhim và Thượng Kon Tum… đã gây ra tình trạng thiếu nước trầm trọng ở vùng hạ du thuộc các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Ngãi, Quảng Nam và Bình Định. Một số DATĐ khác có sơ đồ khai thác kiểu dẫn nước về nhà máy nằm cách xa đập dâng để phát điện cũng đã khiến hàng trăm nghìn hộ dân sống quanh công trình trở nên “khát nước” quanh năm. Trước phản ứng của người dân và chính quyền địa phương các tỉnh Tây Nguyên trước bất cập này, Thứ trưởng Bộ Công thương Hoàng Quốc Vượng đã chỉ đạo các cơ quan liên quan xem xét, thực hiện nghiêm túc quy định xả dòng chảy tối thiểu sau các đập dâng nhằm đáp ứng nhu cầu dùng nước của người dân sinh sống trên địa bàn theo đúng yêu cầu của Bộ Tài nguyên-Môi trường đã phê duyệt, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến đời sống phát triển kinh tế, xã hội tại các tỉnh Gia Lai, Lâm Đồng và Kon Tum.

Cũng theo quy định hiện hành, trước khi phê duyệt đầu tư dự án, chủ đầu tư phải lập và trình cấp thẩm quyền (Bộ Tài nguyên-Môi trường hoặc UBND tỉnh) phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường. Trong đó có biện pháp bảo vệ và giảm thiểu các tác động tiêu cực trên các mặt (môi trường, kinh tế-xã hội) phải được thực hiện đầy đủ, thường xuyên trong quá trình thi công và vận hành công trình. Tuy nhiên, tại một số DATĐ, việc bố trí đổ chất thải chưa hợp lý, công tác thu dọn lòng hồ không triệt để, chưa kịp thời xúc dọn đất đá sạt lở, hoặc khơi thông hệ thống thoát nước tại hiện trường thi công khiến bùn cát lắng đọng vào dung tích chết của hồ chứa nhiều hơn. Dòng chảy về hạ lưu mất đi lượng phù sa đáng kể, từng bước làm “sa mạc hóa” vùng hạ du. Ví dụ như vùng hạ lưu công trình thủy điện Buôn Tua Sra (Dak Lak-Dak Nông), nhiều bãi bồi đang bị thu hẹp dần và đất đai ở đó dần bạc màu do thiếu lượng phù sa bồi đắp hằng năm, khiến hoạt động sản xuất nông nghiệp tại đây gặp khó khăn: diện tích, năng suất và sản lượng cây trồng các loại suy giảm đáng kể; thu nhập của người dân theo đó cũng giảm dần.

Một bất cập nữa là: theo Nghị định 23/2006/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng, thì các DATĐ lấy rừng để “đổi” công trình phải trồng lại rừng thay thế. Song đến nay, việc thực thi luật này đang bị chủ đầu tư các DATĐ trên địa bàn Tây Nguyên xem nhẹ, thậm chí làm lơ (!?).

 Như ở Dak Lak chẳng hạn, các DATĐ được UBND tỉnh phê duyệt và yêu cầu các chủ đầu tư phải trồng mới gần 850 ha rừng (tương đương diện tích rừng tự nhiên bị mất do làm thủy điện). Nhưng đến nay, theo ông Đinh Văn Khiết-Phó chủ tịch UBND tỉnh cho biết: chỉ mới thực hiện được 63 ha; trong đó DATĐ Sêrêpôk 4 trồng được 38,6 ha so với 202 ha rừng tự nhiên được chuyển đổi; DATĐ Ea M’Đoan 2 trồng được 5 ha, trong khi diện tích rừng được chuyển đổi gần 12 ha. Các tỉnh khác trên địa bàn Tây Nguyên cũng ở trong tình trạng tương tự, rừng bị đánh đổi để làm thủy điện không được các chủ đầu tư dự án phục hồi theo đúng cam kết, dẫn đến mật độ che phủ rừng trên toàn khu vực không đạt yêu cầu đặt ra (khoảng 47% trên toàn vùng).

Rõ ràng, chuyện được và mất trong việc quy hoạch, xây dựng thủy điện ở Tây Nguyên đã rõ. Vấn đề còn lại mà các tỉnh quan tâm là các bộ, ngành Trung ương cần đánh giá, xem xét một cách thấu đáo hiệu quả của các DATĐ đang được tiếp tục đầu tư vào đây để không gây thêm những hệ lụy đáng buồn.

Thực hiện yêu cầu của Quốc hội và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương vừa phối hợp với UBND các tỉnh Tây Nguyên tổ chức rà soát quy hoạch và đầu tư xây xựng các DATĐ trên địa bàn. Kết quả: đã thống nhất với UBND các tỉnh trong khu vực loại khỏi quy hoạch 33 dự án, không xem xét quy hoạch 108 vị trí có tiềm năng khai thác thủy điện do hiệu quả thấp, tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội.  

Đình Đối

 

Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.