Cà phê Dak Lak và câu chuyện liên kết “4 nhà”
Để nâng cao chuỗi giá trị của ngành hàng cà phê Dak Lak, không còn cách nào khác ngoài việc liên kết một cách chặt chẽ và có trách nhiệm hơn giữa các nhà (khoa học, nông dân, Nhà nước, doanh nghiệp) đứng chân trên địa bàn. Đến nay, việc liên kết “4 nhà” đã có chiều sâu hơn và bắt đầu phát huy hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh mặt hàng chiến lược này.
Thay đổi thói quen canh tác
Đến nay, những hộ sản xuất cà phê tại các vùng trọng điểm như Buôn Ma Thuột, Cư M’gar, Buôn Hồ, Krông Buk, Krông Pak, Krông Năng và Ea H’leo…đang từ bỏ dần thói quen canh tác bấp bênh và thiếu bền vững như trước. Từ chỗ đua nhau mở rộng diện tích trồng cà phê và sẵn sàng áp dụng mọi biện pháp canh tác cực đoan mà không cần tính đến hậu quả xấu nhằm tìm kiếm lợi nhuận, thì nay họ đã thay đổi nhận thức theo hướng tích cực hơn. Mặt khác. diện tích cà phê của các địa phương được ngành nông nghiệp khống chế và quy hoạch lại cho phù hợp với điều kiện thực tế từng vùng, từng nơi; vườn cây của hầu hết các nông hộ đều chú trọng đến yếu tố cây che bóng và đặc biệt là trong quá trình chăm sóc, thu hái cà phê đã có sự cải thiện rõ nét: không lạm dụng các loại thuốc kích thích hóa học; khâu thu hái cũng như chế biến cà phê đều tuân thủ đúng quy trình và yêu cầu đặt ra. Nhờ vậy, năng suất và chất lượng cà phê Dak Lak đã từng bước được nâng cao, khẳng định được vị thế trong hoạt động mua bán và xuất khẩu hiện nay.
Chất lượng cà phê Dak Lak được cải thiện và nâng cao hơn bắt đầu từ khâu thu hái, chế biến đúng quy định (Ảnh: Đ.Đ) |
Vậy điều gì đã khiến người làm cà phê ở đây thay đổi như vậy? Anh Nguyễn Trọng Khánh ở xã Cư Êbur-TP. Buôn Ma Thuột cho hay: kể từ khi Công ty cà phê 2-9 về đây liên kết với người nông dân xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu thì mọi chuyện trở nên khác hẳn. Điều đầu tiên là người làm cà phê nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của doanh nghiệp trên các mặt: kỹ thuật canh tác, chăm sóc, chế biến, tiêu thụ… Tiếp đó cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như nước tưới, kho tàng, sân bãi và công nghệ được công ty này kiến thiết và giúp đỡ tích cực đã góp phần nâng cao đời sống cho người dân. Cuối cùng, theo anh Khánh - điều quan trọng hơn là thông qua mối liên kết ấy đã gắn bó người nông dân và doanh nghiệp, cùng nhau chia sẻ lợi ích kinh tế-xã hội từ chuỗi giá trị của hạt cà phê mang lại. Còn chị Trương Thị Mỹ Dung ở Hòa Đông-huyện Krông Pak tâm sự: mấy năm về trước, mặc dù chính quyền địa phương luôn khuyến cáo không nên thu hoạch cà phê xanh, non và hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để bảo đảm chất lượng cho cà phê Dak Lak, song ít người quan tâm đến điều đó; cứ đến vụ thu hoạch người ta bảo nhau: thà “xanh nhà hơn già đồng”. Khâu phơi phóng, chế biến càng tệ hơn do thiếu sân bãi, công nghệ phụ trợ… vì thế chất lượng cà phê ở đây thực sự là bài toán nan giải. Việc sản xuất cà phê đầy bất cập của người nông dân Dak Lak có thể lý giải bằng nguyên nhân: thiếu vốn, thiếu kiến thức. Đến nay, “lỗ hổng” ấy đã được khắc phục nhờ các doanh nghiệp như Công ty cà phê 2-9 và Công ty Dak Man đứng ra làm bà đỡ cho người nông dân từ khâu canh tác cho đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Chị Trương Thị Mỹ Dung cho rằng: mối liên kết giữa người nông dân và doanh nghiệp ấy thật sự là đáp án cho bài toán chất lượng cà phê trên địa bàn Dak Lak hiện nay. Hạt cà phê làm ra không còn bị “mua đứt, bán đoạn” như trước, mà nó thật sự trở thành mối quan tâm, chia sẻ của cả cộng đồng sản xuất và kinh doanh mặt hàng có giá trị này.
Đã hình thành và chủ động được vùng nguyên liệu.
Ông Nguyễn Văn Sinh - Phó giám đốc Sở NN-PTNT Dak Lak cho rằng: một số doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu cà phê trong tỉnh đã chủ động tìm đến với người nông dân nhằm xây dựng và chủ động hơn vùng nguyên liệu cho mình. Hiện tại, ngoài Công ty cà phê Thắng Lợi, nay đã có thêm Công ty cà phê 2-9, Dak Man, Thái Hòa… đang triển khai mô hình liên kết sản xuất cà phê bền vững với hàng chục nghìn hộ tại các địa bàn Cư M’gar, Buôn Ma Thuột, Buôn Hồ với diện tích trên 22.000 ha. Điều đó cho thấy vấn đề xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, có chất lượng nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh cà phê ở Dak Lak đã được các doanh nghiệp chú trọng. Ông Lê Đức Thống - Tổng giám đốc Công ty cà phê 2-9 đánh giá: do trước đây không xây dựng vùng nguyên liệu nên các nhà xuất khẩu không kiểm soát hết hàng hóa của mình, ít nhất là về mặt chất lượng, kế hoạch sản xuất…vì thế mới nảy sinh vấn đề tranh mua, tranh bán khi mùa vụ cà phê đến; rồi đến khi xuất khẩu ra thị trường thế giới bị đối tác thải loại do không bảo đảm tiêu chí, yêu cầu đặt ra. Những “rủi ro” đó không những gây phương hại cho DN, mà người trực tiếp làm cà phê càng “thiệt đơn thiệt kép” vì không phát huy được chuỗi giá trị kinh tế của ngành cà phê mang lại. Đến nay, mối liên kết giữa hai nhà (doanh nghiệp và nông dân) đã tạo tiền đề, cơ sở thuận lợi cho nhà khoa học và nhà quản lý vào cuộc, góp sức nâng cao chất lượng cũng như sự bền vững cho cà phê ở đây. Bởi một khi các nông hộ làm cà phê cùng ngồi lại “một chiếu”, cùng được sự quan tâm, đầu tư của doanh nghiệp theo một bộ tiêu chuẩn rõ ràng thì việc chuyển giao khoa học, công nghệ tiên tiến vào đời sống sản xuất trở nên đơn giản và hiệu quả hơn nhiều. Theo đó, tình trạng mất cắp cà phê, buộc nông dân phải hái quả xanh, non sẽ được chính quyền quản lý, giám sát thuận lợi hơn vì một lẽ trách nhiệm không còn là “quả bóng” được các bên đá qua, đá lại… mà đã thuộc về cả cộng đồng sản xuất, kinh doanh cà phê cùng quan tâm.
Cà phê được xem là “hạt vàng” của Dak Lak. (Ảnh: Lê Ngọc) |
Có thể nói, hình ảnh cà phê Dak Lak trong hai niên vụ gần đây đã dần được cải thiện trong mắt các bạn hàng lớn trong nước và quốc tế về chất lượng cũng như quy trình xây dựng và định vị thương hiệu. Ông Nguyễn Văn Sinh-Phó giám đốc Sở NN-PTNT đánh giá: Nhờ Quyết định 80 của Thủ tướng chính phủ về mối liên kết “4 nhà” ra đời kịp thời và Dak Lak triển khai một cách quyết tâm với phương châm: lấy nông dân làm trung tâm, DN thúc đẩy và chính quyền quản lý… đã tạo nên sự thay đổi thực chất cho ngành sản xuất, kinh doanh cà phê ở “thủ phủ” của loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và được coi là chiến lược này.
Đình Đối
Ý kiến bạn đọc