Multimedia Đọc Báo in

Nguồn lực cho Y tế học đường: Những "lỗ hổng" cần lấp đầy

10:40, 24/12/2014

Kỳ II: Đâu là nguyên nhân? *

Theo quy định, các trường học phải có y tế học đường để chăm sóc sức khỏe ban đầu, cũng như tuyên truyền giáo dục sức khỏe học đường cho HS. Thế nhưng, công tác y tế học đường vẫn còn lắm gian nan mà theo nhận định của ngành Giáo dục nguyên nhân chính là do… thiếu nguồn lực.

Theo Thông tư Liên tịch số 35, ngày 23-8-2006 của Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Nội vụ hướng dẫn định mức biên chế viên chức ở các cơ sở giáo dục phổ thông công lập thì, mỗi trường học được bố trí một biên chế làm công tác y tế trường học (YTTH). Tiếp đó năm 2007, Bộ Giáo dục-Đào tạo lại có Quyết định số 73, ngày 4-12-2007 quy định trình độ của cán bộ làm công tác YTTH phải từ trung cấp y trở lên. Mới đây nhất, Thông tư liên tịch số 18, ngày 28-04-2011 của Bộ Giáo dục-Đào tạo và Bộ Y tế cũng quy định “nhân viên YTTH phải có trình độ từ trung cấp y trở lên thuộc biên chế chính thức của nhà trường”. Quy định là như vậy, song trên thực tế, đến thời điểm này nhiều trường học trên địa bàn tỉnh vẫn chưa có nhân viên y tế hoặc có thì chỉ là… kiêm nhiệm. Ngay như TP. Buôn Ma Thuột, là trung tâm của tỉnh nhưng tình trạng thiếu nhân viên YTTH vẫn “nóng”. Đơn cử như Trường THCS Ea Tu (xã Ea Tu, TP. Buôn Ma Thuột), một trong những trường nhiều năm liền không có nhân viên y tế chuyên trách. Thầy Nguyễn Đức Trung, Phó Hiệu trưởng nhà trường cho biết: “Tuy nằm ở địa bàn thành phố, nhưng đặc thù của trường lại có đến 83% HS dân tộc thiểu số, đặc biệt nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, ít được bố mẹ quan tâm đến sức khỏe.
 
Trong khi đó, từ ngày thành lập trường (năm 2000) đến năm 2013, trường chúng tôi không có nhân viên y tế chuyên trách, mảng y tế học đường được giao cho nhân viên văn phòng, cán bộ Đoàn - Đội kiêm nhiệm. Chính vì không có nhân viên y tế chuyên trách, trường gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động của y tế học đường, nhất là đẩy mạnh tuyên truyền về phòng chống dịch bệnh, vận động phụ huynh HS thay đổi nhận thức về chăm sóc sức khỏe cho con em. May mắn cho chúng tôi, đến năm học 2013-2014, sau nhiều lần đề xuất, kiến nghị, trường đã được bố trí biên chế nhân viên y tế”. Được biết, hiện nay trong tổng số 121 trường học do Phòng GD-ĐT TP. Buôn Ma Thuột quản lý mới có trên 50% số trường có cán bộ y tế chuyên trách, số còn lại là kiêm nhiệm. Theo ông Nguyễn Văn Sơn, chuyên viên phụ trách hoạt động ngoài giờ lên lớp của Phòng GD-ĐT thành phố: “Công tác y tế ở các trường học trên địa bàn hiện chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Ở những trường có nhân viên chuyên trách y tế thì tạm thời chưa nói đến; còn những trường do kế toán, văn thư, thủ quỹ, cán bộ Đoàn-Đội kiêm nhiệm, chưa qua đào tạo chuyên môn ngành Y, chưa hiểu rõ chức năng cũng như những nội dung công tác chuyên môn nên lúng túng trong triển khai nhiệm vụ. Điều này dẫn đến tình trạng phòng y tế tại một số trường học thường xuyên “cửa đóng then cài”, tủ thuốc y tế … có cũng như không!”.
Bác sĩ Võ Thị Kim Yến, nhân viên y tế Trường THPT Buôn Ma Thuột kiểm tra sức khỏe cho giáo viên nhà trường
Bác sĩ Võ Thị Kim Yến, nhân viên y tế Trường THPT Buôn Ma Thuột kiểm tra sức khỏe cho giáo viên nhà trường

Ngay ở TP. Buôn Ma Thuột đã vậy, các địa phương khác càng khó khăn hơn. Theo thống kê đầu năm học 2014-2015 của Sở GD-ĐT, trong số 987 trường học từ bậc mầm non đến THPT, thì chỉ có 726 trường có nhân viên y tế (chiếm gần 73,6%). Cụ thể, bậc MN là 192/279 trường (gần 69%); TH là 285/422 trường (gần 68%); THCS là 195/232 trường (84%) và THPT là 54/54 trường (100%). Như vậy, toàn tỉnh hiện còn trên 26% trường học “trắng” nhân viên y tế. Đây là một trong những nỗi lo của ngành Giáo dục, bởi vai trò của y tế trường học không hề nhỏ, như lời một nhân viên y tế trường học: “Bình thường nhìn vào sẽ thấy công việc của y tế học đường có vẻ nhẹ nhàng, nhưng mỗi lần xuất hiện dịch bệnh như sốt xuất huyết, tay-chân-miệng, đau mắt đỏ… thì công việc của chúng tôi rất vất vả”. Đáng quan ngại, với bậc học MN, TH, y tế học đường rất quan trọng, lẽ ra phải được “bao phủ” nhân viên y tế thì lại thiếu nhiều hơn so với các bậc học khác. Không chỉ vậy, trong số 726 nhân viên y tế trường học hiện có, số có trình độ đúng quy định chưa nhiều và đó chính là điều thực sự đáng lo.

Lý giải về việc thiếu nguồn nhân lực y tế học đường, nhiều lãnh đạo trường học cho rằng, trước hết là do mức lương và mức phụ cấp của nhân viên y tế so với công chức, viên chức khác trong nhà trường còn quá thấp nên chưa đủ “sức hút” theo nghề này. Thử làm một phép so sánh  đơn giản thì thấy, giáo viên ngoài lương còn có phụ cấp thâm niên, phụ cấp đứng lớp, còn với nhân viên y tế trường học nguồn thu nhập duy nhất là lương cơ bản. Trường hợp của điều dưỡng Võ Thị Hảo, nhân viên chuyên trách y tế Trường THCS Ea Tu (TP. Buôn Ma Thuột) là một ví dụ điển hình. Phải đảm nhận rất nhiều hoạt động trong ngày từ chăm lo sức khỏe, tuyên truyền cho HS về vệ sinh môi trường, vệ sinh lớp học, phòng, chống dịch bệnh theo mùa… nhưng mỗi tháng thu nhập chỉ vỏn vẹn 2.570.000 đồng! Cô Hảo chia sẻ: “Em gắn bó với công việc này là do yêu thích, muốn đem kiến thức của mình giúp HS trang bị kỹ năng sống. May mà em không bị áp lực về tài chính, chứ không thì cũng phải “nhảy việc” từ lâu rồi”. Với những trường có định biên đã vậy, còn những trường chưa có định biên lại khó khăn hơn rất nhiều. Hiện tại, đa số kinh phí cho hoạt động y tế học đường tại các cơ sở giáo dục chủ yếu được trích từ % bảo hiểm y tế HS. Với nguồn kinh phí ít ỏi này rất khó để duy trì việc chi trả lương cho nhân viên y tế trường học chuyên trách và tổ chức các hoạt động y tế tại nhà trường.

Có thể nói, việc đầu tư cho công tác y tế học đường có ý nghĩa quan trọng, nên việc có cơ chế phù hợp nhằm thu hút cán bộ y tế có chuyên môn,  tâm huyết; đồng thời có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ y tế trường học để lấp đầy “khoảng trống” chính là biện pháp tháo gỡ khó khăn trong công tác y tế học đường hiện nay.

(còn nữa)

Kim Oanh – Nguyên Hoa

 


Ý kiến bạn đọc


Chung tay Vì người nghèo - để không ai bị bỏ lại phía sau
“Chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau” không chỉ là khẩu hiệu mà đã và đang được tỉnh Đắk Lắk - địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, với tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao thực hiện bằng những hành động cụ thể, thiết thực.