Những nhà văn nổi tiếng thế giới
Wislawa Szymborska - ngọn cờ đầu của thi ca Ba Lan thời hiện đại
Nhà thơ người Ba Lan Wislawa Szymborska sinh năm 1923 tại Bnin (nay là Kórnik, gần Poznan); năm 1929 gia đình chuyển đến Krakow. Bà học xong tiểu học năm 1935 và trung học năm 1941, khi Ba Lan còn bị Đức chiếm đóng. Trong một thời gian ngắn Szymborska làm công nhân đường sắt. Từ khoảng 1945-1947, bà học văn học Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagiellonski. Năm 1945 bà khởi đầu sự nghiệp sáng tác với bài thơ Szukam slowa (Tôi tìm lời); năm 1952 in tập thơ đầu tiên Dlatego zyjemy (Vì lẽ này chúng ta đang sống) và được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan.
Phong cách thơ của Szymborska thời kỳ này mang tính hiện thực truyền thống, viết về chiến tranh, quân đội, tổ quốc. Năm 1957, Szymborska xuất bản tập thơ thứ ba Wolanie do yeti (Lời kêu gọi đối với người tuyết) được dư luận quan tâm. Thời kỳ này bà thường viết lối thơ tự do, đặc trưng cho các nhà thơ Tây Âu đương đại, nhưng thơ Szymborska không trừu tượng mà cụ thể và dễ hiểu.
Trong những năm 1953-1981, bà là biên tập viên thơ và là người viết xã luận trên tuần báo Zycie Literackie (Đời sống văn học), các tiểu luận của bà về sau được tập hợp xuất bản dưới dạng sách tái bản nhiều lần. Trong khoảng 1952-1996, bà đã xuất bản 16 tập thơ. Ngoài ra, bà còn dịch thơ tiếng Pháp, tiếng Nga ra tiếng Ba Lan.
Những tác phẩm đầu tiên của Wisawa Szymborska, hai tập thơ Vì điều này chúng ta sống và Những câu hỏi bản thân mình, xuất hiện đầu những năm 50 của thế kỷ trước. Người phụ nữ duyên dáng và khi đó còn khá trẻ đã được giới phê bình ngay từ đầu đánh giá đầy thiện ý. Thậm chí, năm 1954, Wisawa Szymborska còn được thành phố Krakow, nơi bà sống và làm việc từ thời trẻ, trao giải thưởng văn học.
Tuy nhiên, phải đến những năm 60, khi tập thơ Muối được xuất bản, Wisawa Szymborska mới sáng chói lên như một tài năng thi ca đích thực của đất nước vốn đã có không chỉ một nhà thơ lớn này. Kể từ đó đến nay, vị muối mặn mòi trong thơ Wisawa Szymborska đã thấm đậm tâm trí và tình yêu của độc giả. Những tập thơ tiếp theo của Wisawa Szymborska, như Trò vui (1967), Trường hợp bất kỳ (1972), Các số lớn (1976) và Không có gì hai lần (1980)... càng củng cố thêm vị trí hàng đầu thi đàn Ba Lan và châu Âu của bà.
Szymborska được tặng nhiều giải thưởng văn học. Năm 1954 bà được tặng giải thưởng của thành phố Krakow; năm 1963 bà đoạt giải Văn học của Bộ trưởng Văn hóa Nghệ thuật Ba Lan; năm 1997 giải thưởng Goethe của Đức và năm 1995 giải thưởng Herder của Áo. Bà được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Adam Mickiewicz tại Poznan (1995) và giải thưởng Hội Văn bút Ba Lan (1996). Năm 1996, Szymborska được trao Giải Nobel Văn học cho "những tác phẩm thơ tái hiện chân thực một thế giới trong đó cái thiện và cái ác đan xen, giành giật nhau chỗ đứng cả lẫn trong tư duy và hành động của con người, thể hiện tấm lòng một công dân, một nghệ sĩ có nhân cách lớn và đầy trách nhiệm trước những thực trạng các giá trị tinh thần bị đảo lộn, trước nguy cơ suy đồi đạo đức trong cuộc sống hiện đại". Thơ của Wislawa Szymborska được dịch ra gần 40 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.
Trong gần nửa thế kỷ qua, thơ Wisawa Szymborska không chỉ đã chinh phục hoàn toàn trái tim đồng bào mình, mà còn bắc được những nhịp cầu đến cùng độc giả nhiều nước trên thế giới, làm rạng danh cho nền văn học Ba Lan, nơi giải Nobel văn chương từng được trao cho Henryk Sienkiewicz (1905), Vladislaw Raymont (1924), Czeslaw Milosz (1980).
Cũng như nhiều nhà thơ nổi bật thời hiện đại, Wisawa Szymborska có vốn văn hóa cao và sâu sắc. Bà từng nghiên cứu về văn học và xã hội học trong Trường Đại học Jagiellonian. Tuổi trẻ bà lại trôi qua trong những thời điểm khá bi thiết đối với tổ quốc Ba Lan của bà. Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã để lại dấu ấn bầm máu không bao giờ mờ phai trong tâm khảm những nhà thơ thế hệ Wisawa Szymborska.
Ý kiến bạn đọc