"Về thôi nàng Vọng Phu"
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh ….
Nàng Tô Thị xứ Lạng dãi dầu nắng mưa thuở trước không còn nữa, hình dáng nàng không còn nguyên vẹn như xưa nhưng câu chuyện bi thương về nàng vẫn còn in đậm trong ký ức dân gian. Nàng bồng con chờ chồng từ chiến trận, ba năm, năm năm… rồi mãi mãi chẳng về, để nàng hóa đá.
Hòn Vọng Phu ở Tuy Hòa (Khánh Hòa). Ảnh: T.L |
Không đâu như đất nước này, nàng Vọng phu trải dài theo chiều dài đất nước. Phải đâu chỉ có một Vọng phu Lạng Sơn. Khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng có những nàng Vọng phu…
Chuyện cổ nước mình nhiều. Nhưng sự tích Vọng phu được nhiều người, mọi thời yêu thích. Sự tích Hòn Vọng phu ẩn chứa một triết lý và tình thương sâu sắc. Dù là truyện ở địa phương nào, cũng đều có một chủ đề thống nhất: ca ngợi đức tính thủy chung, kiên trinh của người vợ - một yêu cầu đạo đức của mọi thời. Hơn nữa, điều đó còn cắt nghĩa tại sao cho đến tận bây giờ, sự tích Hòn Vọng phu vẫn làm rung động biết bao thế hệ người Việt yêu chuộng hòa bình, tôn trọng phẩm giá con người.
Không phải ngẫu nhiên câu chuyện thương tâm như thế lại sống mãi trong ký ức dân gian. Không phải ngẫu nhiên câu chuyện là nguồn cảm hứng cho bao thi phẩm, nhạc phẩm…từ xưa xa đến tận bây giờ.
Năm Quí Hợi (1804), nhà thơ Nguyễn Du được triều Gia Long cử vào phái bộ đi sứ sang Trung Quốc. Trước khi qua biên giới, ở Đồng Đăng-Lạng Sơn, nhà thơ đã làm bài Vọng phu thạch đầy thương cảm, có mấy câu sau:
Thạch gia? Nhân gia? Bỉ hà nhân?
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Vạn kiếp diễn vô vân vũ mộng
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân
Nghĩa là:
Đá ư? Người ư? Người là ai?
Ngàn vạn mùa xuân đứng lẻ loi
Muôn thuở mây mưa xa mộng mị
Một lòng son sắt vững thân đời…
Bài thơ đượm buồn, song cái đẹp của tấm lòng nàng Tô Thị dưới mắt Nguyễn Du vẫn trường tồn với thời gian.
Rồi ta lại nghe nét nhạc khi hào sảng, lúc thiết tha rồi lại xót xa, trong bao ca khúc liên hoàn trác tuyệt nói về nàng Vọng Phu của nhạc sĩ Lê Thương từ thời tiền chiến: Hòn Vọng Phu I, Hòn Vọng Phu II, Hòn Vọng Phu III.
Thì đây:
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn, quan với quân lên đường…
Rồi cảnh:
Người đi về vạn lý quan san, người đứng chờ trong bóng cô đơn
Để rồi:
Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về
Bao nhiêu phen thời gian xóa bao lời thề
Cuối cùng đọng lại trong ta vẫn là hình ảnh “người biến thành tượng đá ôm con” (Hòn Vọng Phu I) với nỗi mong chờ cho đến mòn phai “đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ” (Hòn Vọng Phu II). Nét nhạc làm ta bồi hồi, xa xót, thương cảm kéo thời gian xa xưa lại gần…như chuyện mới vừa qua.
Rồi vở chèo “Linh hồn của đá” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ chuyển thể từ chuyện cổ tích “Sự tích Hòn Vọng phu” vẫn làm rung động bao trái tim khán giả.
Cảm nhận hình ảnh nàng Vọng phu sâu sắc nhất có lẽ không ai hơn chính những người lính. Nhà thơ khoác áo lính Vương Trọng hình như đã cảm nhận sâu sắc thân phận bi kịch của những người vợ đợi chồng đến tuyệt vọng sau cuộc chiến, nên đã dành nhiều tác phẩm viết nhiều về họ với sự liên tưởng đến nàng Vọng Phu. Trong tập thơ Về thôi nàng Vọng Phu (NXB.Văn học, H.1990), Vương Trọng đã hóa thân mà “Trò chuyện với nàng Vọng Phu” thời nay. Và đây là cuộc chuyện trò, đối thoại của họ.
Tác giả thầm thì:
-Về thôi nàng ơi
Niềm sum họp đã vào từng cánh cửa
Sao nàng còn đứng trong mưa gió
Cô đơn giữa mây trời?
Và nàng trả lời với tấm lòng chung thủy, kiên trinh của mình, bởi chẳng phải vô cớ nàng đứng chờ đến hóa đá:
-Thế đâu những lời
Ta đã hẹn với người thương nhớ?
Phải rồi, những lời hẹn thề dù đá nát vàng phai. Nhưng lời hẹn thề ở một đất nước lắm binh đao, lửa đạn liệu có vẹn được chăng. Tác giả lo lắng:
-Người ấy chẳng bao giờ về nữa
Mấy ngàn năm ngắn ngủi làm sao
Đất nước qua trăm bận binh đao
Lở bồi dâu bể…
Còn nàng thì vẫn xót xa trong kiên định:
-Người đời biết thân ta hóa đá
Nhưng không hay ta hóa đá niềm tin
Hóa đá nỗi cô đơn
Và thời gian chờ đợi…
Cuộc chuyện trò với nàng đã giúp tác giả hiểu ra rằng: nàng đã
…hóa đá đợi triệu lần nỗi đợi
để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ mong.
Đất nước lắm binh đao. Chuyện nàng Vọng phu cuối cùng vẫn là chuyện về khát vọng muôn đời hòa bình, xua bóng chiến tranh “để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ mong”, là sự trân trọng và tin tưởng ở phẩm giá của con người-mà người phụ nữ Việt Nam là tiêu biểu. Phải chăng đó là ý nghĩa nhân văn sâu xa, là minh triết và tình thương của dân tộc trong một câu chuyện cổ, là tâm thức của con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, mong muốn hạnh phúc.
Về thôi nàng Vọng phu! Đất nước đã qua những cơn binh đao! Sao nàng còn đứng đó! Về thôi nàng Vọng Phu! Về thôi … Khát vọng hòa bình, mong muốn sống hạnh phúc của dân tộc đã tạc vào thời gian rồi!
Trần Xuân Toàn
Ý kiến bạn đọc