Từ sông Krông Bông (Kỳ 30)
Anh Cảnh bí thư theo ông Ama Ring tỉnh ủy, đã ba bốn ngày vẫn chưa thấy về. Lên tỉnh để thương lượng và xin thuốc sốt rét. Làm việc với ban dân y, với bệnh xá tỉnh đội. Muối mắm thì xã tìm cách này, cách nọ mua từ các ấp, các dinh điền vùng ven. Riêng món thuốc chống sốt rét thì phải xin trên tỉnh, các mối cơ sở vùng ven mỗi lần chỉ mua được năm ba vỉ, vài ba viên. Mua thuốc sốt rét nhiều, thế nào cũng bị bọn mật thám đánh hơi theo dõi, rồi bị bắt bởi tội danh tiếp tế thuốc men cho cộng sản. Không biết anh Cảnh xoay xở đến đâu, chỉ có tin nhắn về là ráng chờ anh đến chiều, anh về rồi mới chôn cất Hồng Thắm. Với lại, suốt buổi sáng, đất trời yên ắng. Mưa nhỏ chừng mười lăm phút lúc giữa trưa, làm bầu trời thêm trong xanh. Chiếc L.19 lại bay rất cao, lượn lờ như để bơi, tiếng kêu của nó loãng trong không gian, nếu ai không để ý thì cũng chẳng biết có nó bay trên đầu. Vậy thì cứ thong thả chờ.
Công việc hậu sự cho Hồng Thắm đâu đã vào đấy, chỉ còn chờ anh Cảnh. Chừng năm sáu chục người đứng ngồi phía trong, phía ngoài nhà anh Mẹo - Mấy người đứng trước nhà nói chuyện, đối đáp nho nhỏ.
- Sáng ni ngó bộ yên tĩnh quá hè?
- Ớ, té ra không có bọn trực thăng, bọn AD 6 đến bắn phá, mấy người lại nhớ.
- Nhớ cái ông có nội mi! Thì có người chết, có đám tang nó cũng phải biết điều, ngưng bắn giết một ngày để người ta đưa người chết về với nước Chúa đã chớ.
- Úi trời, có thằng Mỹ nào được như lão nói thì làm chi có chiến tranh - Hết đạn thì nó nghỉ bắn. Mà lão đừng có mừng vội. Mấy thằng buôn súng bên Mỹ đã chở đạn pháo đến Phước An rồi đó. Hắn làm nhanh rứa bởi chuyện nớ là nghề của hắn. Thiên hạ có đánh nhau, hắn mới mừng. Nếu lão không muốn lên võ đài thì hắn cũng mò đến nhà lão, cà khịa ra đủ mọi chuyện cho lão ức trào máu, rồi hắn la làng lên cho cả gầm trời này nghe là lão gây sự với hắn, hắn phải chở đạn bom đến để dạy cho lão một bài. Bấy chừ, cha con lão làm răng? Thì mau mau xách gói xuống hầm đi. Mấy thằng pháo binh Phước An đã nạp đạn vô súng rồi đó.
Không biết mấy lời bàn tán của đám nông dân da bọc xương có động đến đấng thần linh nào không, mà lại tỏ ra rất có hiệu nghiệm - Đúng mười hai giờ trưa, đại bác từ Phước An bắn cấp tập vô dinh điền, cứ tưởng như chúng bắn bù cho mấy ngày nghỉ bắn - Cứ thế, tầm pháo chuyển đi khắp nơi, đến cánh đồng Lò Lư, vô chân núi, lại ra dinh điền, nhiều lần đạn pháo rớt xuống sông. Tiếng pháo ngớt một đỗi, anh đoàn trưởng xem đồng hồ đeo tay, đã bốn giờ chiều. Không chờ đợi ai được nữa. Anh bảo : “Đã đến giờ động quan”.
Đi xuôi theo bờ sông chừng mười lăm phút, đoàn người đưa tang rẽ sang phía tay trái, tạt vô chân núi. Một cái gò nhỏ giữa hai ngọn đồi có hình hài giống như hai trái bí xanh nằm song song dưới đất. Phía tây gò là hai triền núi cao dựng đứng, tạo thành một cái truông dài thăm thẳm về hướng mặt trời lặn. Cái gò dày đặc cây mua hoa tím, cao ngang bụng. Phía dưới chân gò, đã có vài ba ngôi mộ mới tinh, vun đắp cẩu thả. Anh em thanh niên phát một vùng rộng trên đỉnh gò, rồi đào huyệt. Khi nắng chiều đã yếu mới hạ huyệt.
Mọi người đứng hai bên và phía dưới chân ngôi mộ. Anh trưởng đoàn chắp hai bàn tay trên bụng, đôi mắt đỏ hoe dưới vành mũ tai bèo màu cỏ úa. Anh đứng phía dưới chân mộ, hai hàng nước mắt chảy dài, nhưng không khóc. Anh nói trong cái tĩnh lặng :
- Các đồng chí, chúng ta nghiêng mình một phút để vĩnh biệt người đồng chí, đồng đội của chúng ta. Những gì mà người đã ra đi chưa làm được đặt lên hai vai của chúng ta ... Xin vĩnh biệt.
Tất cả rơm rớm nước mắt. Có mấy người khóc thút thít. Hà chợt nhận ra vùng này dày đặc cây dã quỳ, hoa vàng rực rỡ. Anh đã nhanh nhẹn bẻ một bó. Hà đứng bên anh đoàn trưởng một lúc.
Rồi anh chợt quỳ xuống chân mộ Hồng Thắm. Bó hoa dã quỳ ngang ngực. Anh muốn nói nhưng nghẹn lời, nét mặt rưng rưng. Anh chỉ nghĩ trong đầu theo những cảm xúc dào dạt: “ Thắm ơi, thôi em hãy nằm lại... Anh chỉ biết mang hình bóng của em trong trái tim, đi suốt cuộc đời...”. Khi anh vừa đứng dậy, đến đặt bó dã quỳ xuống giữa mộ thì những mảng mây màu xám phía tây trôi mau, để nắng chiều chiếu sáng cái truông dài trước mặt, chiếu sáng hai quả đồi và cái gò nhỏ. Cho đến lúc mặt trời sụp xuống núi thì phía chân trời đầu truông ánh nắng vàng nhẹ chiếu khắp nơi. Thằng Thắng cũng nhanh tay bẻ một ôm hoa dã quỳ trải khắp phần mộ Hồng Thắm. Cùng lúc đó, đạn pháo bay víu víu trên đầu, nổ ầm ầm phía bên kia sông. Đến ba quả nối đuôi nhau, không dày lắm.
Hoàng hôn buông xuống. Trước khi quay lưng trở về, tuy trời đã mờ nhưng trước mặt Hà, anh vẫn thấy một cách rõ ràng ngôi mộ Hồng Thắm nằm trên ngọn gò đầy hoa mua màu tím và hoa dã quỳ vàng rực rỡ. Anh thầm nghĩ rằng hình ảnh ấy sẽ theo anh suốt đời. Anh buột miệng kêu lên : “Trời ơi, ta đâu ngờ cô ấy không còn nữa...”.
Anh trưởng đoàn ở lại ăn cơm với anh Mẹo. Gọi là ăn cơm, mà đâu có cơm. Một nồi đất khoai lang khô. Con bé khéo tay, nấu khoai không nhão, nước chỉ vừa đủ cho khoa chín và bở ra. Khuê Ngọc Điền có thứ khoai nghệ màu vàng, ngọt như mật. Khoai luộc, xắt phơi khô, thành lương khô chống càn. Anh Mẹo nói trong vườn bên kia sông, anh có hai luống khoai, mỗi luống dài chừng hai chục thước. Lần đầu tiên Hà thấy anh Mẹo nói là đi lấy khoai, vậy mà anh chỉ đem về một củ. Củ khoai to bằng tô múc canh, hình hài giống trái bí non. Anh Mẹo bảo chỉ cần cào sơ lớp đất bên trên, muốn móc mấy củ, tùy mình. Anh thường chỉ lấy về một vài củ, ăn hết, lấy nữa. Kiểu cách ấy, Hà chỉ thấy ở đây.
Con bé dọn lên món nộm mít non. Nó nói món ni chị Thắm bày cho nó, nhưng không có muối, không có mì chính sợ mấy chú chê.
Anh trưởng đoàn cười, nói lớn :
- Có món chi, ăn món nấy. Thời chiến mà.
Hà chợt nhớ món quà của Hồng Thắm - Hộp dầu cù là. Anh đã mở ra xem một lần - Lúc nay đây, sao anh xúc động lạ thường, một nỗi xúc động anh chưa bao giờ có. Năm người ngồi quanh cái mâm nhôm có một đường rạch ngang do bom đạn đã được gò kín lại. Món nộm mít non giữa mâm được tém lên cẩn thận - Cái đèn cạn dầu của Hà để trên khúc gỗ dựng đứng, cao bằng một gang tay, không đủ sức tỏa sáng xuống mâm nộm mít được đặt sát khúc gỗ. Mỗi người một chén khoai lang.
Hà rút hộp dầu trong túi áo. Anh đưa hộp dầu sát vô ngọn đèn, nhìn anh trưởng đoàn và nói :
- Anh Sử, đây là quà của Hồng Thắm gửi lại...
Đến đây, Hà nghẹn lời. Anh đưa phần dưới hộp có màu trắng về phía anh trưởng đoàn, giọng run run :
- Muối. Muối trắng đựng đầy hộp dầu. Hồng Thắm tặng tôi chiều tối hôm qua, nói là sắp sang thôn năm làm công tác bố phòng...
Mười con mắt nhìn chăm chăm món quà của Thắm. Căn nhà trở nên im lặng nặng nề trong giây lát. Anh trưởng đoàn cầm hộp muối bé xíu lên ngắm, như ngắm một vật lạ. Anh nói :
- Vật quý của tấm lòng còn đây, mà người đã mất...
Hà cầm đũa, định gắp bỏ chén mỗi người một hộp muối. Nhưng anh trưởng đoàn, rồi sau đó mọi người làm theo anh, đều ngửa bàn tay ra để Hà bỏ muối, mỗi người đúng một hạt bằng hạt đậu trắng. Trong hộp dầu chỉ còn chút muối nát li ti.
Bữa cơm khoai xúc động, nghẹn ngào - Vị muối ngấm khiến cho mọi người cảm thấy dễ chịu. Trong đầu Hà, rực rỡ hình ảnh ngôi mộ Hồng Thắm - Hoa mua tím mặt gò, hoa dã quỳ vàng trải trên mộ, bầu trời hoàng hôn màu vàng nhẹ. Và cả tiếng đại bác nhịp ba...
Có tiếng chân người trước nhà. Lâm và thằng Thắng xuất hiện đột ngột.
Anh Mẹo lên tiếng:
- Chị em mi cơm nước chi chưa, ngồi xuống đây làm mấy lát khoai lang.
Cô Lâm uể oải ngồi xuống ghế le, lâu lắm mới trả lời anh Mẹo. Hà đã gặp Lâm nhiều lần, biết Lâm và Thắm là bạn bè cùng lứa, thân nhau lắm. Bây giờ Lâm ngồi trên ghế, để nguyên cây CKC sau lưng, nòng súng nhô lên sau đầu. Lâm mặc bộ bà ba đen, hai ống xắn cao ngang gối. Mặt cô buồn rười rượi. Một lúc sau cô đứng dậy, nói với anh Sử, anh Mẹo :
- Bây chừ, em phải ra với nó. Giọng Lâm ngập ngừng, rưng rưng - Nó ra đi, mà em không về kịp.
Anh Sử cản lại :
- Thôi, chuyện đã rồi. Sáng mai ra với nó. Bây chừ tối thui, tối mò, còn đi đâu nữa.
Lâm bấm ngọn đèn pin sáng lóa, rọi ra phía trước nhà. Giọng cô đanh lại:
- Không chờ đến mai, đến mốt. Em đi bây chừ, đi với thằng Thắng. Cái gò ấy em biết.
(Còn nữa)
Trích tiểu thuyết của Trúc Hoài
Ý kiến bạn đọc