Chuyện làng ngày ấy
Đây là câu chuyện thuộc về những năm sáu mươi của thế kỷ trước - cái thời đã xưa rồi!
... Thời mà cô Bình, cô Lài mới mười chín tuổi, về làm dâu làng được ba ngày thì chồng khoác ba lô, vác súng Nam tiến, để lại người vợ trẻ tóc dài môi mọng cấy hái trên cánh đồng bay trắng cánh cò. Để rồi những trưa hè ve kêu râm ran rặng duối, những tối thu xao xác heo may, gió thổi lơi tơi những ngọn đèn đom đóm nở xanh ao bèo; Bình và Lài ngồi trên bờ ao khe khẽ hát bài “Tình trong lá thiếp”: “Cầm lá thiếp này lòng hướng vô Nam, dù xa muôn trùng nhưng tình em mãi ngàn năm không mờ…”. Hát, nhưng chỉ hát thầm, không dám cao giọng vì sợ ông bố chồng nghe thấy, ông lại mắng: “ Chồng chúng mày đi chiến đấu nơi xa, cực khổ nguy hiểm trăm bề; chúng mày không biết nhớ biết thương, lại còn bày ra trò hát hỏng, đàn đúm…”. Bình và Lài có nhớ, có thương đấy chứ. Nhớ lắm, thương lắm, nhưng không dám thốt thành lời, vì sợ nỗi nhớ thương làm não lòng người nơi xa.
Chuyện ấy xưa rồi – vào những ngày xa… Chồng cô Bình, cô Lài không trở về nữa. Bà Bình nay đã bảy mặt con với ông chồng người Mường ở tận Cao Bằng. Cô Lài trót lỡ làng với anh bộ đội pháo binh về đóng quân ở làng trước khi lên đường vào Nam, nay đã thành bà ngoại. Cuộc đời của họ đều khổ như nhau. Và, họ trụ được đến hôm nay bởi trong tim họ có một thời con gái đầy ắp nhớ nhung mãi hát đợi người đi… Cũng như họ, đêm nay anh ngồi viết truyện này trong hoài niệm lới lơ cùng điệu chèo mà ngày xưa cô Bình và cô Lài ngồi hát bên bờ ao: “Duyên phận ơi, ta phải chiều, này ai ơi (chứ đôi thời), đôi chúng ta…”.
Mắt anh lại rân rấn nước…
*
Làng Yên Phó của anh đẹp như bao làng quê khác của vùng đồng bằng bắc bộ, có dòng sông Vạc chảy như mơ giữa đôi bờ lúa. Cây đa “Ông Tích” bên bờ sông đã vài trăm năm tuổi, buông rễ chằng chịt. Bóng mát của đa là nơi lũ trẻ chơi đủ các trò: Nhảy dây, chơi Ô ăn quan, trò đánh trận giả với tiếng súng hóp đì đọp; tiếng cãi vã nhau về thắng thua, được mất… náo nhiệt một khúc sông. Dưới sông, những đoàn thuyền buồm trắng buồm nâu xuôi dòng triều lên, nghe rõ cả tiếng sóng vỗ ì oặp hai mạn gỗ; tiếng những anh lái thơ thới hò điệu hò sông nước. Buổi chiều, trên bờ đê, trâu lững thững về chuồng; đàn Nhạn chấp chới trời cao rồi lại sà xuống mặt đồng lúa xanh rờn, đuổi theo những con chuồn chuồn mải chơi quên trời đã muộn. Trong làng, nhiều ánh lửa bập bùng trong bếp. Bóng tối theo gió trườn từ mặt đất lên, sẫm dần. Các con ngõ vang lên tiếng chổi tre lạt sạt trên mặt đất; tiếng dội nước xuồm xuồm bên giếng khơi,và tiếng chó sủa ủng oẳng như gần, như xa …
Làng Yên Phó của anh bình yên như bao làng quê khác, bình thường như bao làng quê khác; chẳng có người giàu và cũng không có người nghèo, ai cũng như ai, đều cánh áo nâu và chiếc nón hết mới rồi đến cũ, thủy chung cùng mưa nắng, ruộng đồng. Chỉ có bầy trẻ là cứ lớn lên; con gái phổng phao dần, con trai vỡ giọng tự lúc nào không hay. Trai gái làng ai cũng đẹp, ai cũng phơi phới niềm vui.
(Ảnh minh họa) |
Năm 1964, Mỹ đánh phá ra miền Bắc. Tiếng nổ đầu tiên nổ trên đất làng là trái Rốc - két bắn xuống cánh Đồng Mả. Chẳng hiểu thằng phi công bắn xuống cái gì, vì mục đích gì, vì khi ấy chẳng có ai, chẳng có con trâu con bò nào ở Đồng Mả. Máy bay đi rồi, cả làng kéo ra xem. Mùi thuốc nổ vẫn còn khét lẹt, mảnh đạn văng tứ tung. Mỗi người nhặt một mảnh, rồi bình luận, rồi nhận xét. Có người còn nhổ nước bọt vào miếng sắt sắc lẻm đang cầm trên tay rồi buông một câu: “Đồ hổ giấy, chứ khoe mẽ cái gì?”.
Nhưng rồi, một buổi trưa. Cả làng đang nghỉ ngơi sau buổi sáng hè oi bức làm lụng quần quật ngoài đồng, thì một bầy bốn chiếc F.4 lao tới, nhanh và đột ngột đến mức như từ ngọn núi bay ra. Sau những tiếng rít chói tai là bốn tiếng nổ đinh tai nhức óc ở phía sông Vạc. “- Máy bay bắn xuống bè nứa trên sông rồi, bà con ơi”- Tiếng ai đó kêu to. Lần này thì bàn tay lông lá của chiến tranh đã thực sự thọc vào trái tim của dân làng. Nhìn chiếc bè vỡ tan, hàng nghìn cây nứa trôi nổi lập lềnh trên mặt nước; người chết, máu loang đỏ mặt sông… người dân làng anh bỗng thấy hãi hùng. Hãi hùng và căm thù trộn lẫn trong huyết quản mỗi người. Anh cũng có mặt trên sông buổi chiều hôm ấy. Trong tâm trí của cậu bé mười tuổi, anh lờ mờ nhận ra rằng: Làng anh không còn bình yên, làng anh đã thật sự nhập vào cuộc chiến của toàn dân tộc.
Lớp lớp trai làng ra đi. Trong họ tộc nhà anh có chú Trị chích máu ở ngón tay để viết đơn tình nguyện. Cậu Na cũng đã có giấy báo nhập ngũ. Ở xóm Ngoài, anh Tân, con trai duy nhất của bà Tân cũng đã là pháo thủ bảo vệ cầu Hàm Rồng. Anh Tân mới cưới vợ. Vợ anh là chị Quế, người làng Rầu, đẹp lắm. Mặt chị tròn như vầng trăng, tóc dài da trắng, thân hình nẩy nở sau làn áo gụ. Mỗi tội chị nói tiếng làng Rầu nên giọng hơi nặng, dấu ngã thành dấu hỏi. Hỏi chuyện ai, nói về điều gì, cuối câu bao giờ chị cũng bảo: “Vậy í nì”. Nhưng có một điều ai cũng phải công nhận là: các cô dâu của làng thật xinh, thật đẹp. Họ về làm dâu làng, tự nguyện trở thành một số phận của làng, cùng gánh vác số phận của làng; đóng góp vào sự tồn tại của làng để vượt qua mọi thử thách mà bươn tới.
*
Vòng xoáy của cuộc chiến tranh thực sự xoáy lốc vào làng anh khi trong rặng tre, dưới cánh đồng thiếu vắng dần bóng trai làng. Hầu như toàn bộ trai làng đã ra đi, vào nơi chiến trường. Làng anh chỉ còn lại những người không đủ điều kiện để đi khám sức khỏe nhập ngũ. Anh Truân, hai mươi hai tuổi nhưng chỉ cao một mét tư, nặng ba mươi tám ki lô gam; anh Khiêm bị teo một bên cánh tay, chân lại đi cà nhắc, phết phẩy trên đường thôn. Đẹp trai có thầy giáo Việt, ba bảy tuổi, đã quá tuổi nhập ngũ. Thầy đang dạy cấp một trong làng. Anh Thiện, hai mươi hai tuổi, làm kế toán hợp tác xã, vì gia đình đã có hai anh trai nhập ngũ nên được miễn… Họ trở thành “Của hiếm” ở làng; là trụ đỡ trong mọi việc; là hồn của làng, để làng đỡ hiu hắt; để chứng tỏ rằng làng vẫn còn đàn ông trai tráng.
Nhưng rồi, làng không yên, làng có động bởi chính những “Của hiếm” ấy.
Đầu tiên là vụ thầy Việt phải lòng chị Bình. Chị Bình đẹp như nàng Bạch tuyết trong truyện cổ tích, lại hát hay, múa giỏi. Làm vợ mới được ba ngày thì anh Hợi, chồng chị, vào Nam. Anh Hợi đi biền biệt, chẳng có thư về. Chị Bình nhớ chồng, ngày làm lụng, tối về ghi nhật ký vào cuốn sổ học trò. Rồi chị làm thơ nữa. Thơ làm xong, chị đưa thầy giáo Việt đọc, nhờ góp ý. Đưa, nhưng chị phải đưa lén, sợ xóm làng dị nghị. Được đến bài thứ năm thì thầy Việt quay ra thương trộm nhớ thầm chị Bình. Thầy có chiếc xe đạp Pơgiô của Pháp, có thể nói là sang nhất làng. Cứ chiều về, nắng vàng rải lụa trên đường thôn, tan trường về, qua ngõ nhà bố chồng chị Bình, thầy Việt lại bấm những hồi chuông kính coong… kính coong… thật giòn, thật vui. Chẳng biết chị Bình có nghe thấy không, nhưng tiếng chuông xe đạp thì thật thao thiết. Nó như một nỗi lòng, một lời chào của một người nhắn gọi một người. Rồi chị Bình có thai. Cả chị Bình và thầy Việt phải chịu tất cả nỗi cơ cực của luật làng; những đay nghiến, rủa xả của cả làng. Chị Bình phải nuốt nước mắt nạo bỏ cái thai, biệt xứ lên miền ngược. Thầy Việt vì đã có vợ và ba con nên cắn răng ở lại làng, chịu cái án kỷ luật buộc thôi việc. Bà vợ thầy buộc thầy phải bán chiếc xe đạp, dắt trâu ra đồng học cày, học cấy. Thầy đi, lủi thủi cùng cái bóng, cúi đầu nhìn bàn chân mình. Chiếc cày như cây thánh giá trên vai thầy; trĩu nặng và oan nghiệt.
Rồi chuyện anh Truân với chị Na, anh Thành với chị Đan, anh Khiêm với chị Hoàn... Họ chưa dan díu gì với nhau, chỉ là chuyện gặp nhau tình cờ trên bờ đê, đánh mắt sang nhau, thả ra một câu ỡm ờ, bóng gió; hoặc chuyện cùng đi gánh rạ trưa trên cánh đồng vắng, nhìn bắp vế con gái xa chồng trắng nuột, đưa chân kèo một cái, có người ở mãi bên kia đồng nhìn thấy, vậy là thành chuyện, thành lời ong tiếng ve nhỏ to quanh họ. Khổ nhất là các cô dâu làng. Ở độ tuổi mười tám, đôi mươi, họ phải trằn mình lên để cố giữ phẩm tiết cho mình, giữ phẩm tiết cho làng.
Người ra trận cứ thay nhau ngã xuống, nhẹ như những tờ giấy báo tử gửi về làng. Ngày nhận được giấy báo tử chú Trị, bà Bản ngất lên ngất xuống. Đợt xã làm lễ truy điệu cho chú ở đình làng, anh được bà ngoại cho đi cùng. Anh đứng sau bà Bản, thấy bà sao bỗng kiên cường đến vậy. Nét tiều tụy chỉ còn trong dáng người, còn gương mặt bà thì nghiêm trang đến rạng ngời. Sau khi ông chủ tịch xã đọc Giấy báo tử, đến khi hô khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược!”, anh nghe tiếng bà hòa trong tiếng hô hàng trăm người: “Lảo đảo! Lảo đảo…”.
Rồi đến lượt anh Tân, anh Liêm, anh Trung có giấy báo tử. Anh Tân là con một, bố mất sớm từ khi anh còn bé tí tẹo, mẹ anh ở vậy nuôi con, nên tên anh cũng là tên mẹ: “Bà Tân”. Anh Tân hy sinh, bà Tân chẳng còn gì của riêng mình nữa, nhưng bà không khóc, không hề rơi một giọt lệ. Có lẽ nỗi đau lớn quá, bà không thể khóc được. Bà nói một câu nghe thật sợ: “Thằng Tân không chết đâu. Nó còn sống đấy. Đêm đêm nó vẫn về hỏi thăm sức khỏe tôi đấy. Các ông các bà đừng có làm lễ báo tử báo sinh gì cho tốn…”. Nhưng khi đêm xuống, bà lau nước mắt, nói với chị Quế, con dâu bà: “Chồng con nó chết thật rồi đấy. Con xem có ai thương thì đi với người ta, đừng để uổng đời con gái, con ạ!”. Đợi thêm 5 năm, không nhận được một dòng tin gì về anh Tân, chị Quế khóc lạy mẹ chồng, rồi về làm vợ một anh thương binh cụt chân. Anh chị tựa vào nhau; chị sống tiếp cuộc đời làm vợ người lính. Còn anh Liêm yêu chị Phượng ở xóm trên từ hồi đang học cấp hai. Chị Phượng đẹp như văn công, tính tình kín đáo, e ấp như búp hoa huệ. Ngay từ khi còn đang học, chị đã bị hàng chục chàng trai, cả bạn cùng trường lẫn thanh niên trong làng vây quanh; người thì tán tỉnh, người thì thầm thương trộm nhớ, đem thư đến bỏ trên cửa sổ phòng chị. Cuối cùng, chỉ anh Liêm may mắn khiến được trái tim chị thổn thức. Chị hẹn anh ngày tan giặc, anh về, sẽ làm đám cưới. Anh Liêm hy sinh, chị càng kín tiếng hơn. Mãi sau này, chị lấy anh Hồng, trước ở cùng đơn vị bộ đội với bố chị, đã về phục viên. Nghe nói ông bố đã nhiều lần giơ roi vụt vào lưng, chị mới khuất phục.
Làng anh đấy! Con người làng anh là như vậy đấy! Chân thật và hồn hậu đến xao lòng! Và cũng khốc liệt, khổ sở đến nao lòng!
Rồi đến lớp trai tráng lứa anh tiếp bước đàn anh lên đường. Cùng đi đợt ấy làng anh có năm người: anh và thằng Hùng ở xóm dưới, thằng Tĩnh, thằng Hội, thằng Điền ở xóm trên. Thằng Tĩnh và thằng Hùng cưới vợ trước khi đi. Làng lại thêm những cô dâu đẹp người đẹp nết mặc áo gấm chờ chồng. Các anh đi vào những năm cuối của cuộc chiến tranh nên trở về trọn vẹn. Thằng Tĩnh khi về thì vợ đã chết; nó buồn bỏ đi xuất khẩu lao động bên Đức; lấy vợ Đức và đẻ con nói tiếng Đức sõi hơn tiếng Việt. Thằng Điền vào văn công tỉnh, lại hát tiếp điệu chèo ngày xưa các cô dâu làng anh vẫn hát: “Duyên phận ơi, ta phải chiều, này ai ơi, chứ đôi thời, đôi chúng ta…”.
Riêng các cô dâu của làng thủa xưa thường ngồi bên bờ ao hát bài “Tình trong lá thiếp” nay đều đã thành bà. Họ bế cháu, nằm võng ru cháu ngủ bằng bài hát ngày xưa: “Cầm lá thiếp này lòng nhớ tới anh, ngày mai anh về anh cùng em hát điệu Lý tang tình, cùng nhau ta hò thêm thắm tình ta…”. Ru cháu, hay ru mình, chẳng biết, chỉ thấy mắt họ cứ đỏ hoe. Cũng như họ, những khi buồn chuyện nhân tình thế thái, anh lại tìm chỗ vắng, ngồi lặng một mình, ngân nga một mình: “…Nhắn anh ngày mai này, tan giặc anh về cùng em cho lúa vàng tươi…”.
…Và anh lại chìm vào hoài niệm. Mắt lại rân rấn nước.
Chiều mưa Buôn Ma Thuột
1.5.2009.
Ý kiến bạn đọc