Multimedia Đọc Báo in

Hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội:

Nón làng Chuông

18:55, 01/07/2010
"Muốn ăn cơm trắng cá trê/ Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông", câu ca này đã được truyền tụng từ bao đời, nó cũng là minh chứng cho sự tồn tại và nổi tiếng của một làng nghề hơn 300 năm tuổi. Trải qua bao thăng trầm và biến động cùng lịch sử đất nước, nghề làm nón làng Chuông (huyện Thanh Oai, Hà Nội) ngày càng phát triển.
Sự ra đời của nón làng Chuông được xuất phát từ thực tiễn lao động sản xuất của người dân khu vực đồng bằng Bắc bộ. Chiếc nón không chỉ là công cụ để che nắng, che mưa, chống lại gió rét khi ra đồng hay chạy chợ, nó còn là vật trang sức của các bà, các mẹ, của chị em.
 
Nón làng Chuông có 16 vòng, vòng ngoài cùng to nhất, rộng nhất, các vòng sau nhỏ dần theo hình khuôn nón. Vòng nón được người dân làng Kim Thư – làng liền kề với làng Chuông làm. Vì là “làng trên xóm dưới” nên những người thợ của làng Kim Thư dường như biết được tính nết của người thợ khâu nón làng Chuông. Bởi vậy, chiếc vòng nón được những người thợ hết mình chau chuốt từ đường dao pha đến dao vót sao cho mượt mà, đều đặn, không chắp, không gợn. Nếu người thợ vót không khéo, chỉ một chút cẩu thả thôi sẽ làm vành nón bị cộm, mặt nón khi hoàn chỉnh sẽ không đều, không phẳng. Chính yêu cầu gắt gao này mà bao đời qua, vòng nón làng Kim Thư đã cùng bàn tay người khâu nón làng Chuông tạo nên thương hiệu nón Chuông. 
Bán mo tre
Mo tre, mo nứa những nguyên liệu không thể thiếu để làm nón (Ảnh: Internet)
Chợ Chuông được họp 6 phiên một tháng. Những chiếc nón trắng muốt xếp thành chồng cao xen lẫn dáng người cùng tiếng bán mua, chào hàng tạo thành bức tranh đặc sắc, thanh bình và tràn sức sống của làng nghề. Đi chợ nón người ta không chỉ mua nón, mà chợ là đầu mối mua bán nguyên liệu làm nón. Còn nhớ ngày nhỏ, mỗi dịp hè về quê, đám trẻ con thường hay lấy mo tre xếp thành chồng đem bán mỗi phiên chợ. Ngày nay, tre ở quê không còn nhiều nữa. Theo những người thợ của làng thì nón được làm bằng mo nứa. Mo nứa, lá nón đều được nhập về từ Hòa Bình. Mo nứa dùng để lót cho nón dày, chắc nên yêu cầu phải dày mình, to bản không bị xước, tách. Đối với lá nón, người thợ phải chọn công phu hơn. Để làm được chiếc nón trắng muốt, sáng bóng, người thợ phải chọn lá nón thật non có màu xanh nõn – gọi là lá lụi. Lá lụi khi mua về còn tươi xanh được người thợ đem sơ chế. Đầu tiên phải vò lá với cát sao cho thật đều chân để lá không bị dập rồi đem phơi. Khi đủ nắng, màu xanh của lá chuyển sang màu trắng bạc. Lá phơi đủ trắng, người ta phải để cho mềm lá rồi mới đem rĩa lá. Lá được lót dưới nắm giẻ hơ thật nóng, dùng lưỡi cày miết nhanh sao cho lá phẳng, mượt mà không giòn, không rách.
Những chiếc nón hoàn tất được đưa ra chợ bán (Ảnh: Interrnet)
Qua bàn tay khéo léo của người thợ, những chiếc nón được hoàn tất, đưa ra chợ bán   (Ảnh: Interrnet)
Sau khi đã hoàn tất việc sơ chế các loại nguyên liệu, người thợ làm nón mới chọn những chiếc lá ưng ý nhất để quay nón – còn gọi là lợp lá. Công đoạn này đòi hỏi kỹ thuật cao để tạo dáng nón thanh thoát. Chính vì vậy, với những người tinh mắt chỉ cần liếc qua chiếc nón là có thể biết được người thợ làm nón ấy khéo hay vụng. Mỗi chiếc nón khi quay xong được cấu tạo bởi lớp lá lót, mo nứa và lớp lá ngoài. Một chiếc nón quay đẹp là các lớp lá phải đều, không hở lá, không cộm, khi cầm lên cảm thấy thật mỏng, nhẹ. Người khâu nón đẹp không những mũi kim phải đều tay mà khi khâu người ta phải vuốt, vừa thắt nón vừa đẩy làm sao chiếc nón thật chắc, thật tròn và căng.
 
Với tình yêu nghề, dường như mỗi một công đoạn làm nón người làng Chuông đều cố gắng để lại dấu ấn riêng của mình. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu sử dụng thông thường, hiện nón làng Chuông còn được làm với hình thức, mẫu mã, chủng loại phong phú hơn để phục vụ xuất khẩu, phục vụ các đoàn nghệ thuật và làm quà tặng cho các hội nghị lớn cũng như làm quà tặng mỗi chuyến ra nước ngoài. Thương hiệu nón làng Chuông cùng chiếc áo dài thướt tha đã làm đẹp hơn, ấn tượng hơn  hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam.
Nam Hà

Ý kiến bạn đọc