Nghĩa đúng của từ “trái chủ”
Liên quan đến quá trình xử lý thủ tục pháp lý ở một số dự án liên quan đến trái phiếu lưu hành trên thị trường, một số bản án mới đây thường công bố thông tin “liên quan trái chủ” của các vụ án.
Từ “trái chủ” này, căn cứ các thuật ngữ cơ bản cho nhà đầu tư trái phiếu được các tổ chức đầu tư chứng khoán sử dụng, được định nghĩa “nhà đầu tư mua trái phiếu, hay còn gọi là trái chủ/người sở hữu trái phiếu”. Với định nghĩa này, “trái chủ” có nghĩa là những người mua trái phiếu, tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán, sở hữu các trái phiếu.
Tuy nhiên, trong các từ điển tiếng Việt và Hán Việt, “trái chủ” có nghĩa là “chủ nợ”! Các từ điển đều chú thích rõ, “trái chủ” là chủ nợ. Thậm chí từ điển Hán Việt còn phân tích: trái có nghĩa là việc vay nợ, hành vi vay nợ; chủ có nghĩa là người làm chủ, theo đó, “trái chủ” tất nhiên mang nghĩa là chủ nợ, người cho người khác vay nợ. Quan hệ xác lập ở đây, một cách thuần túy, là chủ nợ và con nợ.
Vậy, việc các nhà chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán định nghĩa “trái chủ” là người đầu tư trái phiếu trong môi trường kinh doanh chứng khoán, liệu có hợp lý và chính xác? Ở trong một phạm vi chuyên sâu, từ dùng “trái chủ” để chỉ nhà đầu tư, mua trái phiếu phát hành, có thể xem là từ vắn tắt chỉ rõ đối tượng, người dùng ở vai trò thành viên tham gia “hệ quy chiếu” này có thể chấp nhận được. Nhưng, mở rộng trường từ ngữ với tiếng Việt, rõ ràng cách định nghĩa này là thiếu chính xác, nếu không nói là sai lệch nghiêm trọng.
Vậy với cộng đồng xã hội, dù là những người có liên quan đến đầu tư trái phiếu và chứng khoán, “trái chủ” nên được hiểu đúng theo nghĩa từ tiếng Việt đơn thuần, hay theo định nghĩa đặc thù của giới chuyên môn soạn ra. Vấn đề ở chỗ, những nhà chuyên môn soạn từ dùng như vậy đã cân nhắc hết những nội dung phát sinh, cách hiểu chính xác hay không?
Từ “trái chủ” như thế, theo các sách đào tạo chứng khoán, và nếu người dùng tra từ điển tiếng Việt, sẽ nên hiểu nghĩa như thế nào?
Có thể nói, đây là một trong rất nhiều từ tiếng Việt hiện nay bị dùng sai lệch đến mức nghiêm trọng, hiểu nghĩa hoàn toàn khác với kiến thức và từ vựng phổ thông. Nếu cơ quan chức năng, cụ thể là các tổ chức khoa học, nghiên cứu về ngôn ngữ tiếng Việt không can thiệp chấn chỉnh ngay, một ngày không xa, việc sử dụng từ “trái chủ” trong xã hội sẽ không được chính xác. Chỉ cần người dùng được học và tiếp cận thêm thuật ngữ của nhà chuyên môn, họ sẽ rất lúng túng không biết nên tin vào định nghĩa từ vựng nào.
Thụy Bất Nhi
Ý kiến bạn đọc