Multimedia Đọc Báo in

Tính toàn diện về giá trị cộng đồng của văn hóa dân tộc bản địa

08:27, 27/10/2023

Văn hóa đặc trưng của các tộc người là những dòng chảy lớn nhỏ khác nhau, nhưng nó làm nên dòng chủ lưu của một dân tộc/quốc gia. Văn hóa là cội rễ của dân tộc nói riêng (như là sắc tộc) và nói chung (đại diện một quốc gia).

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhấn mạnh: “Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống chính trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự hấp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” (Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tr.16).

Tháng 12/1994, Hội nghị lần thứ VIII của Ủy ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa của Việt Nam tập trung thảo luận chủ đề: Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể. Tuy nhiên, đến nay, vẫn còn những khoảng trống, vệt mờ nhạt trong các biện pháp, giải pháp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân tộc bản địa.

Tinh hoa văn hóa được thể hiện qua hoạt động cồng chiêng.

Văn hóa các dân tộc bản địa Tây Nguyên

Toàn vùng Tây Nguyên có tới 53 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 52 dân tộc thiểu số với 2.199.784 người (số liệu năm 2019), chiếm 37,65% dân số toàn vùng. Với dân tộc bản địa, có J’rai 506.372 người, Êđê 359.334 người, Bana 258.723 người, K’Ho 175.905 người, Xê Đăng 143.991 người và các dân tộc khác 755.459 người. Đây là vùng có nhiều thành phần dân tộc nhất nước ta và cũng là nơi duy nhất có đủ các nhóm ngôn ngữ - dân tộc của Việt Nam cùng sinh sống. Các dân tộc ở Tây Nguyên sống đoàn kết, đan xen nhau, tập trung tại 521 xã và 1.489 thôn, buôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Ngoài giao thoa giữa các vùng đệm thuộc sườn phía tây dãy Trường Sơn, văn hóa khu vực Tây Nguyên thực sự “đậm chất”.  Đặc biệt, Tây Nguyên là nơi có Di sản văn hóa Không gian văn hóa cồng chiêng được UNESCO ghi danh là Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (năm 2005), sau được chuyển sang danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (năm 2008). Đây là niềm tự hào của các đồng bào dân tộc bản địa Tây Nguyên, nhưng cũng là thách thức về bảo tồn và phát huy đối với chủ nhân và các cấp quản lý.

Về đặc điểm, do chi phối vũ trụ quan, thế giới quan và nhân sinh quan, khái niệm “văn hóa dân tộc”, theo GS. Trần Quốc Vượng, “thực chất là văn hóa dân gian Tây Nguyên có mặt trong mọi hoạt động của con người với những mật độ thưa, mau tùy theo từng thời gian trong năm”. Những biểu hiện đó là, qua lễ cầu an cho đời sống nói chung của con người và những gì liên quan đến đời sống như cây trồng, vật nuôi, đồ dùng, phương tiện, sông, núi, vườn, rẫy… theo hướng “siêu nhiên hóa”. Cùng đó, những nghi lễ ăn mừng với sự kiện của vòng đời người như sinh ra, trưởng thành, cưới xin, mất đi…; hay vòng đời của cây trồng, của vật nuôi như gieo trồng, thu hoạch mùa màng… Phương tiện chuyển tải trong nghi lễ bao gồm cả biểu tượng tinh thần (văn hóa phi vật thể): dân ca, dân vũ…; những sản vật (văn hóa vật thể): rượu cần, chóe, các loại nhạc cụ, thổ cẩm, cây nêu, nhà sàn, nhà rông, nhà cúng…; các nghề thủ công: dệt vải, đan lát, làm gốm, hội họa, điêu khắc, nhạc cụ…; và nhiều sản phẩm của nông nghiệp. Trong đó, đặc biệt tinh hoa của văn hóa được thể hiện qua chiêng và không gian sinh tồn của hoạt động cồng chiêng. Chiêng và những thể hiện từ nó đóng vai trò chủ đạo như là một ngôn ngữ để con người trò chuyện, tâm giao với thiên nhiên; gắn kết “đời người dài theo tiếng chiêng”.

Điệu xoang quanh nhà sàn.

Với đồng bào các dân tộc bản địa Tây Nguyên, hiện thực và huyền thoại đan xen, hòa quện. Thú vị và tiềm tàng, bởi đây là “chất liệu” của văn hóa. Nó đẩy cuộc sống lên ở tính bay bổng, tính lãng mạn; vừa đạt cấp độ của tính bền vững, trên nền của niềm tin tưởng và trong mối quan hệ tương tác, bình đẳng giữa con người với môi trường. Chính cái chất hoang sơ, huyền thoại, cổ truyền này làm nên giá trị của văn hóa, đó là phẩm chất “bản thiện”, khi nó “chưa bị tha hóa” (C.Mác).

 

“Khôi phục” và “bảo tồn” đều một mục tiêu “phục hưng”. Vì thế, “thâu phục được cái đã mất” đã khó, “giữ gìn” nó được lâu dài, bền vững, càng khó.

Những “vỉa” văn hóa ấy cũng là “mảnh đất” tươi tốt tạo nên tố chất nghệ sĩ, tiềm năng sáng tạo về cái đẹp đa dạng và phong phú của con người Tây Nguyên. Quả thật, “Đến Tây Nguyên ít nhiều có cảm giác như đang sống trong không gian văn hóa Đông Sơn vậy. Vùng văn hóa Tây Nguyên hay còn có thể gọi là vùng hậu duệ rõ nét nhất của văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam” (GS. Trần Quốc Vượng).

Khôi phục và bảo tồn không chỉ dựa vào chủ thể văn hóa

Hiểu gọn khái niệm “khôi phục” và “bảo tồn” là hai quá trình diễn tiến, cái có trước cái có sau. “Thâu phục được cái đã mất” (khôi phục) và “giữ gìn” (bảo tồn) - Nguyễn Văn Khôn (Hán -Việt từ điển, Nhà sách Khai Trí, Sài gòn. 1960). Cả hai nhiệm vụ đều khó khăn, đặc biệt là “giá trị văn hóa bản địa”. Bởi, một lúc phải đạt được cả bốn đặc trưng cơ bản: hệ thống, giá trị, lịch sử, nhân sinh. Muốn “khôi phục” và “bảo tồn” đồng thời đáp ứng được nhu cầu - nghĩa vụ và đối tượng - quyền lợi của chủ thể văn hóa.

Văn hóa tôn vinh sản xuất nông nghiệp.

Thực tiễn cho thấy, không ít giá trị văn hóa bản địa đã mai một hay lệch chuẩn. Nguyên nhân có cả chủ quan và khách quan. Như: thời gian, không gian, tác động tiêu cực của giao thoa, của tiếp biến; nhu cầu và năng lực thẩm mĩ… Vì vậy, trước tiên không phải là chủ thể (đối tượng của văn hóa), mà là những tác động từ bên ngoài. Bởi, “Trong khối người (các sắc tộc bản địa) mới nhìn qua thấy có một sự thuần khiết về hình thức và trình độ khai hóa đó, lại có nhiều sự khác biệt phức tạp về ngôn ngữ, tập quán, tính tình” (Cửu Long Giang - Toan Ánh, Cao nguyên miền Thượng, Sài Gòn, 1974, tr.205). Việc “phục hồi” và “bảo tồn” trước hết phải nắm vững những đặc trưng của những “hạt”/“vỉa” văn hóa tương đồng và dị biệt của từng mạch nguồn mỗi sắc tộc. Hệ quy chiếu bao gồm: sản xuất nông nghiệp; cư trú; giao thông; chế độ xã hội; tôn giáo; văn học dân gian; văn hóa khảo cổ… Đây là thang tiêu chí cần và đủ để nhận diện cái gì cần “thâu phục” khi nó đã và đang “mất”, cái gì phải “giữ gìn” khi nó đang mai một, sai lệch.

Tóm kết, bảo tồn và phát huy là quá trình của chọn lựa khoa học và chính từ thực thể nội tại. Bảo tồn và phát triển văn hóa là hai nhiệm vụ nối tiếp nhau, của chủ thể và khách thể, hiểu theo phân biệt: cốt lõi và giao thoa, thể hiện và tiếp nhận… 

Phan Minh Đạo


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.