Multimedia Đọc Báo in

Dự án “Cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em dân tộc thiểu số thông qua hành vi có lợi cho sức khỏe”: Góp phần giúp giảm bệnh tật, tử vong bà mẹ, trẻ em

13:44, 20/11/2011

Từ tháng 6-2011, Dự án “Cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em dân tộc thiểu số thông qua hành vi có lợi cho sức khỏe” do Trung tâm Nghiên cứu phát triển y tế cộng đồng phối hợp với Sở Y tế đã được triển khai tại 6 xã, thị trấn gồm Yang Mao, Cư Pui, Cư Drăm (Krông Bông) và Ea Lê, Cư Kbang, thị trấn Ea Súp (Ea Súp). Thông qua việc khuyến khích các hành vi có lợi cho sức khỏe của bà mẹ và trẻ em trong các cặp vợ chồng, gia đình và cộng đồng như: nâng cao hiểu biết và thực hành dinh dưỡng, không kết hôn và mang thai sớm, chuẩn bị đầy đủ cho việc mang thai và sinh nở an toàn, nuôi con đúng cách…, dự án được kỳ vọng sẽ góp phần giảm bệnh tật, tử vong bà mẹ và trẻ em trong nhóm đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh; giảm nguy cơ nghèo hóa bởi gánh nặng chi phí do bệnh tật, ốm đau và tử vong gây ra. 

Hiện nay, tình trạng mang thai sớm và tai biến sản khoa ở phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ người dân tộc thiểu số tại các huyện Krông Bông và  Ea Súp chiếm tỷ lệ khá cao. Ước tính có hơn 32% phụ nữ tại huyện Ea Súp và trên 27% phụ nữ  ở huyện Krông Bông mang thai lần đầu ở độ tuổi từ 17 đến 19 tuổi, thấp hơn từ 3 - 4 tuổi so với tuổi trung bình của cả nước về độ tuổi sinh đẻ. Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã từng có các vấn đề về sản khoa như: nạo phá thai, sảy thai hoặc thai chết lưu… chiếm gần 16% tại huyện Ea Súp và 17% tại huyện Krông Bông. Tỷ lệ phụ nữ sinh con tại nhà là 15,5%, sinh con thiếu sự trợ giúp của cán bộ y tế chiếm hơn 10% tại huyện Ea Súp và gần 18% tại Krông Bông.

(Ảnh minh  họa)
(Ảnh minh họa)
Tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhất thiết phải sinh con trai để nối dõi tông đường vẫn còn khá phổ biến ở hơn 20% cặp vợ chồng tại Ea Súp và Krông Bông. Do vậy, ở các thôn 13, 14, 15, 16 thuộc xã Cư Kbang (Ea Súp) điển hình có một số trường hợp sinh lần thứ 4, thứ 5 là con gái nên vẫn tiếp tục sinh thêm, lại có trường hợp bà mẹ mới 27 tuổi nhưng đã sinh 4 con, và bà mẹ đã 47 tuổi vẫn tiếp tục mang thai để sinh bằng được con trai. Sinh con đông nhưng lại thiếu kiến thức về làm mẹ an toàn như: không biết các dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai, khi chuyển dạ, sau khi sinh, đặc biệt là các dấu hiệu nguy hiểm của trẻ sơ sinh cộng với không có điều kiện chăm sóc sức khỏe trước và trong khi mang thai, nên đã kéo theo nhiều hậu quả, như: kinh tế càng khó khăn, ốm đau, bệnh tật, suy dinh dưỡng  và thất học ở trẻ em… Theo thống kê, tại xã Cư Kbang, 32% phụ nữ mang thai vẫn phải lao động nặng cho tới gần ngày sinh. Chị Thào Thị Pề, dân tộc H’Mông ở thôn 13 xã Cư Kbang (Ea Súp) năm nay mới 25 tuổi nhưng đã có 2 con, hiện chị đang mang thai cháu thứ 3. Mang thai đã gần 9 tháng nhưng chị vẫn phải làm việc ở ngoài đồng. Chị Pề kể: “Nhà mình khổ lắm. Mình có bầu, có con nhỏ nhưng vẫn phải đi làm, chồng làm việc gì thì mình làm việc đó, đến khi đau bụng mới về nhà”. Cũng như chị Pề, chị Hoàng Thị Tiến  ở thôn 11, xã Cư Kbang (Ea Súp) lấy chồng từ năm 18 tuổi; đến nay khi mới ở tuổi 20 chị đã mang thai con thứ 2. Với mức thu nhập bình quân của vợ chồng chị là 200.000 đồng/người/tháng, cuộc sống vô cùng khó khăn nên mặc dù đang mang thai nhưng hằng ngày chị vẫn phải làm những công việc khá nặng nhọc như: xạc cỏ, phơi lúa, bổ củi, múc nước… Khi được hỏi về chế độ dinh dưỡng cũng như kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm trong giai đoạn mang thai, chị đều lắc đầu. Theo thống kê của Trạm Y tế xã Cư Kbang, tổng số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ trên địa bàn xã  hiện có hơn 1.650 người, tính đến hết tháng 8-2011, chỉ có 626 phụ nữ được khám phụ khoa tại trạm, chỉ có 88/115 phụ nữ có thai được khám đủ 3 lần trong thai kỳ và đến sinh tại cơ sở y tế (trong số đó, có tới 29 bà mẹ sinh con lần thứ 3).

Còn tại xã Cư Drăm (Krông Bông), trong 8 tháng đầu năm 2011, Trạm Y tế xã đã khám cho 693 lượt phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, trong đó, phát hiện và điều trị cho gần 400 người. Tỷ lệ bà mẹ sinh đẻ tại nhà và không có sự trợ giúp của cán bộ y tế chiếm hơn 20%. Khó khăn lớn nhất trong quá trình chăm sóc sức khỏe phụ nữ mang thai, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và trẻ em, đặc biệt là bà mẹ và trẻ em dân tộc thiểu số nơi đây là sự bất đồng về ngôn ngữ vì hầu hết phụ nữ người dân tộc H’Mông đều không biết tiếng phổ thông, chưa nhận thức và chưa biết tự chăm sóc sức khỏe trước và trong khi mang thai, nhất là thiếu kiến thức về chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi. Phụ nữ và trẻ em là những người phải chịu ảnh hưởng từ những người có vai trò quyết định trong gia đình như: người chồng, bố mẹ, do vậy bà mẹ và trẻ em chưa nhận được sự quan tâm, chăm sóc đúng mức.

Qua gần 5 tháng triển khai tại các xã nói trên, Dự án “Cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em dân tộc thiểu số thông qua hành vi có lợi cho sức khỏe” đã bước đầu có những hiệu quả nhất định với các hoạt động như: tổ chức Hội nghị vận động các cấp chính quyền địa phương tham gia và phối hợp thực hiện dự án nhằm truyền thông các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ mang thai, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và trẻ em dưới 5 tuổi, tạo điều kiện cho các đối tượng này được tiếp cận các dịch vụ có lợi cho sức khỏe, thay đổi và nâng cao nhận thức về chăm sóc sức  khỏe sinh sản, phòng tránh suy dinh dưỡng ở trẻ em, cũng như giảm tỷ lệ tử vong ở các bà mẹ và trẻ em dưới 5 tuổi… Trong thời gian tới, dự án sẽ tổ chức đào tạo về truyền thông thay đổi hành vi trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ và bảo vệ trẻ em cho cán bộ truyền thông, nhân viên y tế cộng đồng; tập huấn về hành vi làm mẹ an toàn và kỹ năng chăm sóc trẻ  cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, hỗ trợ nhóm cộng đồng được tiếp cận với thông tin làm mẹ an toàn và chăm sóc trẻ, tập huấn cho cán bộ về chăm sóc bà mẹ trẻ em. Đặc biệt, dự án sẽ chú trọng áp dụng các phương thức truyền thông thay đổi hành vi phù hợp với văn hóa, tập quán của người dân địa phương bằng nhiều hình thức; nâng cao năng lực và cam kết của địa phương thực hiện chiến lược truyền thông đa dạng và phù hợp thông qua các nội dung can thiệp cụ thể như: truyền thông thay đổi hành vi làm mẹ an toàn, chăm sóc trẻ em (phụ nữ không kết hôn và mang thai sớm; các cặp vợ chồng chuẩn bị đầy đủ cho việc mang thai và sinh nở an toàn, nuôi con đúng cách, nâng cao vai trò và trách nhiệm của người chồng trong chăm sóc sức khỏe vợ và con cái; phòng chống viêm đường hô hấp và tiêu chảy cho trẻ dưới 5 tuổi…); nâng cao năng lực truyền thông thay đổi hành vi và huy động cộng đồng tuyến huyện, xã, thôn, buôn. Lồng ghép chương trình hỗ trợ vay vốn của ngân hàng chính sách đối với các hộ nghèo và phối hợp với hệ thống bảo hiểm y tế bảo đảm quyền lợi cho người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em người dân tộc thiểu số địa phương.

Tuy nhiên, vẫn còn không ít khó khăn trong quá trình triển khai Dự án “Cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em dân tộc thiểu số thông qua hành vi có lợi cho sức khỏe” như: bất đồng ngôn ngữ, phong tục tập quán, địa hình xa xôi, giao thông khó khăn, thiếu điện và các phương tiện phục vụ cho hoạt động tiếp cận truyền thông đại chúng. Vì vậy rất cần có sự quan tâm và phối hợp của các ban ngành, đoàn thể trong việc lồng ghép tuyên truyền các chương trình để Dự án đạt hiệu quả cao.

Hương Xuân –Bảo Châu

Ý kiến bạn đọc