Multimedia Đọc Báo in

"Biển và quê hương"- Đậm tình thương mẹ, yêu quê

07:18, 25/07/2020

(Ðọc Biển và quê hương – Thơ Bùi Minh Vũ – NXB Hội Nhà văn – 2020)

Khi nói đến hai tiếng quê hương là nói đến những gì để yêu và nhớ. Mỗi người lại có cách yêu và nhớ riêng của mình. Tác giả Bùi Minh Vũ với tập thơ “Biển và quê hương” đã mang nhiều tâm trạng và cung bậc cảm xúc với miền quê của mình:

Quê hương là cái kiềng ba chân

Ta đỏ lên như lửa

Xác thành tro đi nữa

Hồn cũng bay đi khắp quê hương

                                                               (Quê hương)

Tình yêu quê hương vững chãi như thế đứng của chân kiềng, chân vạc lại được tôi luyện trong lửa đỏ nên không thay đổi để xác thành tro, hồn cũng hòa với quê hương. Rất nhiều lần tác giả nhắc đến làng Kỳ Tân:

Sương đêm bảo

Làng Kỳ Tân của mày ở Đức Lợi kìa…

Trăng khuya bảo

Mẹ của mày ở làng Kỳ Tân kìa…

Ban mai bảo

Mày về làng Kỳ Tân mà tìm

                                                             (Làng Kỳ Tân)

Tất cả không gian, thời gian, ngày cũng như đêm đều nhắc về làng Kỳ Tân, vì theo tác giả, nơi đẹp nhất là quê hương làng Kỳ Tân. Có gì đó "thiên vị", nhưng thật sự yêu quê mới viết như thế.

Trong bài “Ánh sáng”, tác giả viết về mẹ thật cảm động:

Dấu chân mẹ đợi cha mòn mỏi

Xanh bệch chờ con và nước mắt.

Thường viết trắng bệch, nhưng xanh bệch là cả tái và xám của mặt người mòn mỏi đợi chờ, để rồi:

Lần cuối cùng

Từng giọt rời buồn bã lặn vào đất

Xám xịt.

Trong luân hồi sự sống, mẹ thành bông hoa:

Hương sắc biến thành ánh nắng chói sáng đời con

Bài “Cái giếng” có tứ hay. Cái giếng giữ hồn làng nên “giữ trăng muôn đời”, “giữ những hạt trăng chưa vỡ”, giữ rất nhiều kỷ niệm quê hương. Cái kết bất ngờ:

Đêm qua

Ai nhổ cái giếng làng tôi

Trồng lên căn nhà trắng phếch

Gió ngập ngừng

Trăng rũ rượi

Thả sợi gàu dài tiếc mãi sợi dây?

Nhổ - trồng, động từ dứt khoát chỉ hành động trái ngược: nhổ giếng – trồng nhà. Cả hai cặp từ đều lạ, chưa có người nào viết. Trắng phếch! Đây là thái độ của tác giả. Nhà vô hồn, vô cảm không có sinh khí nên dẫn đến “gió ngập ngừng”, “trăng rũ rượi”. Thiên nhiên cũng buồn đau khi thấy nhà thay giếng, dẫn đến câu kết nhói lòng: “Thả sợi gầu dài tiếc mãi sợi dây?”. Ẩn sau sợi dây là bao nhiêu kỷ niệm về cái giếng làng, giếng của quê hương.

Bài “Gió qua đồi” gợi nhiều suy nghĩ về tình mẫu tử:

Giọng mẹ tôi trong bếp nguội rồi

Còn tiếng gió bay qua chiều vắng

Mẹ thường gắn với bếp núc. Hay, thật và đau. Chọn từ đắt: giọng nguội rồi. Không còn lửa đỏ, không còn nóng. Hay là thế, thật là thế và cũng đau là thế. Dẫn đến đoạn kết lạ và ấn tượng gieo vào lòng người đọc:

Ngày cũng hết, lá kia rơi về cội

Giọng mẹ tròn như những vành nôi.

So sánh giọng mẹ như vành nôi ru con là sự tiếp nối luân hồi. Mẹ còn mãi như gió qua đồi.

Bài “Bóng mặt trời” có những câu thơ hay của sự tìm tòi, phát hiện rất mới:

Mỗi ngày mẹ mở thêm những con đường trên trán

Đến nơi cơm thừa

Nơi mẹ dậm lon bia chấn thương.

Con đường trên trán chính là vết nhăn thời gian in hình cuộc sống mưu sinh. Lon bia chấn thương là vỏ lon bị méo mó, dậm bẹp đi để vào bao tải cho gọn. Bài thơ viết cho bao người mẹ còn cơ cực, lam lũ:

Chẳng thể nhìn nền văn minh thiếu bóng mặt trời.

Trong bài “Với mẹ”, tình cảm chân thực được cụ thể hóa qua hình ảnh mẹ mà ít người viết:

Nhìn mẹ nấu cơm, ăn trầu

Thấy mẹ nhai cơm cho em.

Khoảng cách thế hệ, bây giờ có nhiều loại sữa, nhiều loại cháo dinh dưỡng, chẳng còn ai phải nhai cơm cho con. Đọc thơ mà đồng cảm, xót xa về một thời để càng thương nhớ mẹ.

Cầm bàn tay mẹ chai sần

Sờ manh vá trên áo mẹ bạc màu

 Nhặt cọng tóc mẹ rơi trên gối

Tôi cứ mường tượng tác giả tha thẩn, chậm rãi qua cử chỉ thân thương lần tìm ký ức. Mẹ chính là quê hương.

Tập thơ gần 155 bài, 160 trang in, đây đã là tập thơ thứ 13 của Bùi Minh Vũ, không kể tiểu thuyết, nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn. Điều đó chứng tỏ một bút lực đáng nể trọng. Tập thơ “Biển và quê hương” kén người đọc, thơ tự do, có tính triết lý; là tập thơ đáng đọc – tập thơ đậm nhân tình.

Hữu Chỉnh


Ý kiến bạn đọc