Phan Phu Tiên - Người biên soạn Việt âm thi tập
Phan Phu Tiên tự là Tín Thần, hiệu Mặc Hiên, người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Theo một số sách cũ thì vào năm 1396 đời Trần Thuận Tông, ông đỗ thái học sinh (tiến sĩ) và làm việc ở Quốc sử viện và Quốc tử giám.
Tới năm 1429, năm thứ hai sau chiến thắng giặc Minh, Lê Thái Tổ cho mở khoa thi Minh kinh để chọn nhân tài, Phan Phu Tiên ra dự thi và đỗ thứ ba. Lại có tài liệu như Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn cho rằng: ông thi đỗ khoa Hoành từ một năm trước khoa này.
Sau khi đỗ, Phan Phu Tiên được bổ nhiệm làm quan Quốc sử viện. Thời gian này vâng mệnh vua, ông biên soạn Việt âm thi tập, bộ hợp tuyển văn học đầu tiên của nước ta. Năm 1433, sách cơ bản đã soạn xong nhưng ông lại được bổ đi làm An phủ sứ ở Thiên Trường, rồi Hoan Châu nên chưa thể khắc ván in sách. Phải đợi đến năm 1459, đời Lê Nhân Tông, sau khi được Thị ngự sử Chu Xa (tiến sĩ năm 1433) biên tập lại, bổ sung mới có dịp khắc ván in sách. Theo lời tựa của Lý Tử Tấn (tiến sĩ năm 1400) thì sách có hơn 700 bài thơ, song đếm theo mục lục thì có 624 bài thơ của 119 tác giả thuộc đủ mọi tầng lớp, vua, quan, danh nho, cao tăng... từ đời Trần đến đời Lê sơ. Trải bao năm tháng sách bị mất đến một nửa, nay chỉ còn 288 bài của 54 tác giả.
Gọi là Việt âm là có ý nói tuy thơ viết bằng chữ Hán nhưng lại là của người Việt và phát âm theo kiểu Việt. Phan Phu Tiên đã nói rõ ý tưởng khi soạn sách trong bài Tựa viết năm 1433:
“... Gần đây vua chúa, sĩ phu, công khanh, không mấy ai không lưu lại chí hướng học thuật của mình, nhân việc ngâm vịnh hàng ngày, mà mô tả tâm tư của mình, do đó các tập thơ truyền ở đời, nhưng tiếc thay, qua cơn binh hoả, chẳng còn được mấy...
... Phu Tiên này chẳng nề nông cạn, vốn xưa nay nghe được những gì về thơ đều ghi lại tất cả, dù đó là những bài thơ hay của người Nam ở trong nước hay ở Bắc mà có quan hệ đến nước nhà, hoặc là những câu bình dị của các bậc hiền ngu, đem gộp lại một số gọi là Việt âm thi tập. Sau khi có các ý kiến của các bậc quân tử, tập này được chia ra thành từng quyển, sắp xếp cẩn thận, vì sợ sau này để rơi rụng đi những hạt châu trong biển xanh mờ mịt...”
Tượng thờ Phan Phu Tiên tại nhà thờ họ Phan ở làng Đông Ngạc, quê hương của ông. |
Như vậy, ông là người đầu tiên làm hợp tuyển thơ của Việt Nam. Trên cơ sở đó mà sau này mới có được các hợp tuyển khác của Dương Đức Nhan (Tinh tuyển chư gia), của Hoàng Tụy Phu (Quần hiền phú tập), của Hoàng Đức Lương (Trích diễm thi tập)...
Khoảng trên chục năm sau Phan Phu Tiên mới được gọi về Thăng Long giữ chức Bác sĩ ở Quốc tử giám. Năm 1455, vua Lê Nhân Tông giao cho ông biên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên, nối tiếp bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, viết từ Trần Thái Tông đến khi giặc Minh rút quân về nước. Khoảng năm 1458, Phan hoàn thành bộ sách, sau đó không có tài liệu nào ghi rõ đoạn cuối đời cũng như ngày mất của ông.
Ngày nay, cả hai hai tập Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên đều đã mất. Nhưng vẫn có thể tìm thấy bóng dáng của chúng trong bộ sử lớn Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên. Đặc biệt sách này còn giữ được mười đoạn bình luận lịch sử của Phan Phu Tiên. Mười đoạn văn này cho thấy ông là một nhà nho luôn nhìn mọi vấn đề qua lăng kính “trung hiếu” của đạo Nho. Tuy vậy, ông cũng không cố chấp và nắm bắt được yêu cầu của dân tộc nên trên một số vấn đề lịch sử, ông có cách đánh giá đúng đắn.
Về thơ, Phan chỉ còn để lại ba bài được chép trong Toàn Việt thi lục. Một bài là lời khuyên lứa trẻ chịu khó học tập, có nhan đề Vi nhân cầu giáo. Một bài tặng bạn họ Lương mãn hạn làm quan, đề cao chí hướng vươn đến cái cao đẹp, tránh nghĩ đến cá nhân, có nhan đề Đương đạo Lương phán quan nhậm mãn. Một bài tặng nhà văn, nhà thơ, nhà chính khách đại tài: Ức Trai Nguyễn Trãi, khi ông được giao chức Gián nghị đại phu.
Phan Phu Tiên thực sự là nhà nho có tâm huyết với học thuật nước nhà. Về văn chương, ông là người đầu tiên có ý thức sưu tập thơ văn, biên soạn hợp tuyển. Công việc của ông về sau được Chu Xa, Hoàng Đức Lương, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích... nối tiếp đời này qua đời khác. Về sử, ông là người nối chí Lê Văn Hưu đời Trần, mở đầu việc viết sử đời Lê, dọn đường cho nhóm Ngô Sĩ Liên hoàn thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Chỉ với hai công tích đó, Phan Phu Tiên cũng đã đáng được coi là danh nhân của Thăng Long - Hà Nội.
(Trích lược Danh nhân Hà Nội)
Ý kiến bạn đọc