Multimedia Đọc Báo in

Tác động của La Nina đến thời tiết Tây Nguyên

09:32, 09/09/2011

Ngày 1-9, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đã công bố những thông tin cập nhật nhất về các hiện tượng thời tiết bất thường El Nino-La Nina trong những tháng còn lại của năm 2011. Trên cơ sở các dữ liệu do các trung tâm dự báo thời tiết và các chuyên gia phân tích khí hậu trên khắp thế giới thu thập và phân tích, các chuyên gia thời tiết của WMO và Viện nghiên cứu về thời tiết và xã hội quốc tế (IRI) của Mỹ nhất trí cho rằng trong những tháng còn lại của năm nay, gần như không có khả năng xảy ra hiện tượng El Nino. Kịch bản có thể xảy ra nhất là tái xuất hiện hiện tượng La Nina do thời tiết thế giới vẫn bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ đại dương. La Nina trong những tháng còn lại của năm 2011 gắn với các điều kiện ẩm ướt tại nhiều khu vực rộng lớn ở Australia, Đông Nam Á và nhiều nơi ở phía bắc khu vực Nam Mỹ, đồng thời với hạn hán nghiêm trọng tại nhiều khu vực ở Sừng châu Phi, miền Trung khu vực Tây Nam Á, phía đông nam khu vực Nam Mỹ và miền Nam nước Mỹ.

La Nina theo tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là cô bé con (hay còn gọi là đối El Ninô, anti-Ninô). La Nina, hiện tượng đối lập với El Ninô là chỉ hiện tượng nhiệt độ mặt nước biển vùng xích đạo phía đông Thái Bình Dương lạnh đi so với điều kiện bình thường (hiện tượng lạnh hay pha lạnh) gây ra những dị thường về thời tiết và khí hậu ở nhiều nơi. Người ta xác định El Nino và La Nina thông qua chỉ số dao động Nam (SOI) và giá trị chuẩn sai nhiệt độ mặt nước biển (SST) ở khu vực Xích Đạo đông Thái Bình Dương. SOI là trị số chênh lệch khí áp giữa Tahiti - một quần đảo ở trung tâm Thái Bình Dương và Darwin ở Bắc Australia. Khi SOI có giá trị âm và chuẩn sai có giá trị dương, khi đó hiện tượng El Nino xuất hiện; ngược lại, khi SOI có giá trị dương và SST có giá trị âm, hiện tượng La Nina xuất hiện. Các giá trị của SOI và SST càng lớn thì các hiện tượng trên càng mạnh.

Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, đã có hơn 13 lần La Nina tác động trực tiếp đến thời tiết Việt Nam. Thông thường, ít nhất 5 - 6 tháng sau khi kết thúc hiện tượng El Ninô mới xuất hiện La Nina, riêng năm 2007 khi El Ninô mới chấm dứt khoảng 2-3 tháng thì hiện tượng này đã kế tiếp. Năm nay, La Nina mới kết thúc hồi tháng 5, giờ lại có khả năng xuất hiện trở lại là minh chứng cho thấy trạng thái khí quyển trong thời gian gần đây biến động rất mạnh do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu; quá trình chuyển từ pha nóng sang pha lạnh hoặc tái xuất hiện pha lạnh diễn ra trong thời gian ngắn hơn nhiều so với trước.
Đối với khí hậu thời tiết ở nhiều khu vực của nước ta trong đó có khu vực Tây Nguyên, hiện tượng El Ninô và La Nina có tác động đến những biến động thời tiết khá rõ nét. Những biến động bất thường, sai lệch so với quy luật nhiều năm xảy ra mạnh mẽ. Nếu như hiện tượng El Ninô gây ra sự thiếu hụt lượng mưa, rút ngắn thời gian mùa mưa, làm gia tăng mức độ khắc nghiệt của mùa khô gây ra tình trạng hạn hán thiếu nước trầm trọng trên diện rộng thì ngược lại, hiện tượng La Nina thường tác động kéo dài thời gian mùa mưa về cuối mùa đồng thời gia tăng lượng mưa, gây lũ lụt nghiêm trọng. Theo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học khí hậu Việt Nam, vào những năm La Nina, số lượng bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến nước ta nhiều hơn rõ rệt so với những năm El Ninô (trung bình 8,3 cơn/năm so với 5,3 cơn/năm) và nhiều hơn trung bình nhiều năm khoảng 1 cơn. Năm nhiều bão nhất có tới 11, 12 cơn; năm ít nhất cũng 5, 6 cơn. 60% số năm có La Nina có trên 9 cơn bão/năm. Tần suất bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến các khu vực từ Trung bộ trở vào trong những năm có La Nina là 70%.    

La Nina có thể gây ra lũ lụt nghiêm trọng.          Ảnh: T.L
La Nina có thể gây ra lũ lụt nghiêm trọng. (Ảnh: T.L)
Đối với dòng chảy sông ngòi nói chung, dòng chảy của các sông suối ở Tây Nguyên nói riêng, mưa là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho quá trình dòng chảy. Mưa nhiều thì dòng chảy phong phú và ngược lại. Phần lớn những năm có La Nina, lượng mưa ở Tây Nguyên đạt cao hơn trung bình nhiều năm từ 30 – 60%; theo đó, lượng dòng chảy sông suối ở Tây Nguyên cũng đạt cao hơn trung bình nhiều năm. Trong đó, dòng chảy trung bình năm đạt cao hơn từ 1,1 – 1,3 lần; dòng chảy lũ đạt cao hơn từ 1,3 – 1,7 lần. Tuy nhiên, không phải cứ năm có La Nina là có nước lớn. Trong một số năm không phải là La Nina nhưng mưa bão vẫn nhiều gây lũ lụt triền miên. Do vậy, không thể cứ thấy La Nina là nói có lũ lụt vì hệ thống thời tiết chịu rất nhiều sự tác động. Trên thực tế, dự báo La Nina xuất hiện gây ra mưa to sinh lũ lụt chỉ có xác suất đúng khoảng 70%.

Ở khu vực Tây Nguyên, gió mùa Tây Nam là tác nhân mang đến nhiều hơi ẩm nhất và tạo ra lượng mưa nhiều nhất, nhưng bão và áp thấp nhiệt đới lại thường mang lại những trận mưa gây lũ lụt nghiêm trọng. Đặc biệt là trong những năm có La Nina thường có từ 2 – 3 cơn bão, áp thấp nhiệt đới hoặc nhiều hơn ảnh hưởng trong một khoảng thời gian ngắn, tập trung trong một khu vực. Một số trường hợp kèm theo ảnh hưởng của không khí lạnh. Vì vậy, các năm này thường xảy ra các đợt mưa lớn trên diện rộng kế tiếp nhau, kéo dài nhiều ngày gây lũ lụt nghiêm trọng. Điển hình là các năm 1964, 1970, 1996, 1998. Số lượng bão, áp thấp nhiệt đới và mưa lũ ảnh hưởng tới nước ta không chỉ tăng trong những năm có La Nina mà còn có xu hướng tăng lên vào năm kế tiếp (hậu La Nina), nếu như liền sau đó không xuất hiện El Nino như những năm 1986, 1989, 1999. Năm 1998, La Nina xuất hiện ngay sau El Nino (tháng 9-1998) làm cho Tây Nguyên phải gồng mình chống lũ lụt ngay sau khi hạn hán vừa chấm dứt.  Khi La Nina bắt đầu hoạt động, cơn bão số 4 xuất hiện gây mưa diện rộng trên khắp Tây Nguyên, tập trung từ ngày 12 đến ngày 15-11. Lượng mưa trong 48 giờ ở một số nơi đạt từ trên 100 đến gần 400mm. Ngay sau bão số 4 khoảng 3 ngày, bão số 5 đã gây mưa tập trung từ ngày 18 đến ngày 20-11-1998 cũng trên diện rộng. Tổng lượng mưa trong thời gian này đạt từ 150 – 350mm. Lượng mưa lớn nhất tiếp tục tập trung ở phía đông, đông nam tỉnh Dak Lak, gây ngập lụt nghiêm trọng khu vực lưu vực sông Krông Ana. Năm 2007, khi mà hiện tượng La Nina còn đang trong giai đoạn hình thành thì bão số 2 xuất hiện kết hợp với gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh gây mưa lũ lớn trên hầu hết các sông suối của Tây Nguyên. Tổng lượng mưa từ ngày 1 đến ngày 4-8 ở nhiều nơi đạt từ 150 – 450mm; một số nơi đạt từ 450 – 600mm. Mưa lũ làm gần 30 người chết và mất tích; nhấn chìm, làm hư hỏng, sập đổ hơn 10 nghìn ngôi nhà và trên 30 nghìn ha diện tích cây trồng. Thiệt hại về vật chất lên trên 1000 tỉ đồng.  Năm 2010, ngay sau khi La Nina hình thành, mưa lũ lớn đã xuất hiện ở Dak Lak và các tỉnh Nam Tây Nguyên.

Số liệu thống kê cho thấy, thiên tai hằng năm ở Tây Nguyên đã gây ra những thiệt hại lớn về người và của cải vật chất. Bởi nơi đây tỷ lệ nông nghiệp nông thôn còn cao, sản xuất phụ thuộc nhiều vào tự nhiên; mạng lưới sông suối dày đặc, độ dốc lớn, rừng đầu nguồn bị tàn phá; nhiều công trình lớn, nhỏ đang làm biến đổi mạnh mẽ diện mạo tự nhiên; các phương tiện ứng cứu còn thô sơ và thiếu; nhiều vùng dân cư mới chưa được quy hoạch theo hướng tiện lợi cho việc phòng tránh thiên tai nên khi bị thiên tai bất thần ập đến, người dân trở tay không kịp. Tây Nguyên đang bước vào thời kỳ cao điểm của mùa mưa, bão, lũ nên công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai cần được các cấp, các ngành và nhân dân quan tâm nhiều hơn, nhất là trong điều kiện hiện tượng La Nina có thể tái xuất hiện trở lại trong các tháng cuối năm nay.   

KS. Nguyễn Văn Huy
(Trung tâm Khí tượng Thủy văn tỉnh Kon Tum)

Ý kiến bạn đọc