Vượn Việt Nam đang bên bờ vực tuyệt chủng
Nghiên cứu toàn diện đầu tiên về vượn tại Việt Nam trong vòng 10 năm qua cho thấy ba trong số sáu loài vượn của Việt Nam (gồm vượn đen Đông Bắc, vượn đen Tây Bắc và vượn má trắng) đang bên bờ vực tuyệt chủng. Kết quả nghiên cứu đã được ghi nhận trong báo cáo mang tên “Hiện trạng bảo tồn vượn ở Việt Nam” do Tổ chức Bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (FFI) và Tổ chức Bảo tồn quốc tế (CI) đồng xuất bản, phát hành ngày 21-5-2012.
Nghiên cứu cho thấy số lượng các loài vượn đã giảm đi đáng kể so với trước đây, chỉ còn một số quần thể sót lại ở các khu bảo tồn. Phần lớn nguyên nhân là do chúng không được bảo vệ một cách khoa học, hiệu quả.
Ấn phẩm: "Hiện trạng bảo tồn vượn ở Việt Nam" |
Ông Ben Rawson, Chuyên gia Linh trưởng Vùng, thuộc Chương trình Greater Mekong của Tổ chức CI, Điều phối viên Nhóm Chuyên gia Linh trưởng Indonesia nhận xét: “Việt Nam hiện là khu vực sinh sống quan trọng của sáu loài vượn quý hiếm của thế giới và tất cả sáu loài này đều đang bị đe dọa tuyệt chủng”. Ông cho rằng nhận thức của người dân về hiện trạng các loài vượn còn thấp chính là nhân tố ảnh hưởng tới việc suy giảm nghiêm trọng các loài này, cho tới nay tình trạng này vẫn tiếp diễn. Người dân, các đối tác, đặc biệt là chính quyền địa phương cần phải nhận thức rõ hơn và hỗ trợ bảo vệ các quần thể đang bị đe doạ tuyệt chủng này.
Mặc dù theo pháp luật Việt Nam, vượn được bảo vệ ở mức cao nhất nhưng không phải ở mọi nơi cán bộ thực thi pháp luật và người dân địa phương đều tuân thủ nghiêm túc. Hiện nay, các loài vượn chủ yếu sống giới hạn trong các khu bảo vệ, trong đó một vài quần thể loài đang bị suy giảm tới mức đáng báo động, trong tương lai gần chúng khó có thể tồn tại và phát triển.
Ông Rawson nhận định: “Ngăn chặn hoạt động săn bắt và buôn bán bất hợp pháp động vật hoang dã là những biện pháp can thiệp cần thiết để bảo vệ các loài vượn quí hiếm của Việt Nam”.
Nạn săn bắt, mua bán động vật hoang dã vẫn đang là vấn nạn do nhu cầu buôn bán làm sinh vật cảnh của người dân và việc một bộ phận dân cư cả tin vào khả năng chữa bệnh bằng thuốc chế từ động vật hoang dã. Điều này khiến quần thể vượn tự nhiên bị suy giảm mạnh.
Đồng thời, sinh cảnh sống của vượn trong các khu bảo vệ liên tục bị mất đi do việc đốn gỗ, mở rộng đất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho thợ săn, lâm tặc xâm nhập vào rừng, đồng thời làm thu hẹp không gian di chuyển của các quần thể vượn, chia cắt chúng thành những quần thể nhỏ và dễ bị tổn thương hơn.
Tiến sỹ Ulrike Streicher, Bác sỹ thú y, Quản lý Chương trình Linh trưởng của FFI Việt Nam cho biết: “Tất cả các mối đe dọa tới vượn nêu trên đều là do con người. Để phát triển được, các quần thể vượn cần một khu vực rừng đủ lớn mà hiện nay Việt Nam còn lại rất ít. Việc bảo vệ Vượn cần được ưu tiên hàng đầu tại Việt Nam. Thành công nhỏ bé mà chúng tôi đạt được tại địa phương trong bảo tồn vượn như tại Khu bảo tồn Vượn Cao Vít, Cao Bằng đã chứng minh chúng ta có thể hy vọng. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều việc cần phải làm”.
Hiện trạng bảo tồn các loài vượn của Việt Nam có thể xem như một chỉ số đánh giá mức độ đa dạng sinh học và môi trường tự nhiên của quốc gia. Theo ông Paul Insua Cao, Quản lý Dự án của FFI về Bảo tồn Vượn tại Lào và Vân Nam, Trung Quốc : “Địa lý của Việt Nam đã tạo ra quần thể động, thực vật độc đáo, cùng với đó là sự đa dạng của các loài vượn. Chúng sống chủ yếu trong những khu rừng từ cận nhiệt đới thuộc vùng rừng núi phía Bắc cho tới những khu vực rừng đất thấp, nhiệt đới gió mùa ở phía Nam. Đáng buồn là sự tồn sinh của hầu hết các quần thể vượn của Việt Nam đều đang bị đe dọa nghiêm trọng giống như phần lớn các động vật hoang dã, quí hiếm khác”.
Ông Nguyễn Mạnh Hà, cán bộ nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết tại hầu hết các vùng phân bố vượn của Việt Nam, các quần thể vượn được biết đến đều đang trong tình trạng có nguy cơ tuyệt chủng. Tại một vài nơi, các nhà khoa học đã không còn ghi nhận được sự hiện diện của chúng. “Chúng ta phải hành động ngay nếu không con cháu sau này của chúng ta sẽ không có cơ hội nhìn thấy các loài vượn trong tự nhiên nữa. Vượn là loài động vật vô cùng hiền lành và đáng yêu. Chúng không làm hại ai mà ngược lại mang đến cho chúng ta vẻ đẹp, tiếng hót vui nhộn và so với các loài động vất khác chúng cũng là họ hàng gần với con người nhất. Nếu tương lai của các loài vượn ở Việt Nam không còn được đảm bảo, thì mức độ đa dạng sinh học, môi trường sống của con ngưòi Việt Nam cũng bị đe dọa”.
Năm ngoái, cá thể tê giác một sừng cuối cùng của Việt Nam đã chết, điều này đồng nghĩa với việc một phân loài tê giác của khu vực Đông Nam Á đã tuyệt chủng. Số phận các loài vượn của Việt Nam cũng đang phải đối diện với nguy cơ này. Để cứu các loài vượn trong tự nhiên, cần có thêm nguồn ngân sách, năng lực kỹ thuật, cải thiện công tác quản lý ở các khu bảo tồn và quan trọng hơn cả là cần có sự chuyển biến tích cực, cấp tiến về thái độ của các cơ quan chính phủ cũng như của người dân đối với tài sản quốc gia quí giá này.
“Hiện trạng bảo tồn các loài vượn ở Việt Nam” là bản báo cáo cập nhật, bổ sung cho ấn phẩm đã được phát hành vào năm 2000. Sau hơn mười năm, báo cáo mới này đã cố gắng đánh giá các xu hướng tồn tại và phát triển của các quần thể của từng loài vượn tại Việt Nam và tính hiệu quả của những nỗ lực bảo tồn vượn từ trước tới nay, đồng thời, đưa ra những đề xuất cần ưu tiên đầu tư cho công tác bảo tồn.
(Theo Thiennhien.net)
Ý kiến bạn đọc