Multimedia Đọc Báo in

Tìm hiểu về Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

07:44, 10/01/2016

1. Tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) năm 2015 được thông qua có hiệu lực thi hành kể từ ngày, tháng, năm nào; gồm bao nhiêu chương, điều; quy định về vấn đề gì? Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 là hợp nhất của các văn bản nào?

Trả lời: Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 (sau đây gọi là Luật năm 2015) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2016. Luật năm 2015 có 17 chương với 173 điều, quy định về nguyên tắc xây dựng và ban hành văn bản QPPL, việc tham gia góp ý kiến xây dựng đối với văn bản QPPL, những hành vi nghiêm cấm trong xây dựng và ban hành văn bản QPPL; thẩm quyền ban hành, nội dung văn bản QPPL; quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL; hiệu lực, nguyên tắc áp dụng, công khai văn bản QPPL; giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; hợp nhất, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL; pháp điển hệ thống QPPL; giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các điều khoản thi hành.

Luật năm 2015 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển hai Luật hiện hành đó là Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008 (sau đây gọi là Luật năm 2008) và Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 (sau đây gọi là Luật năm 2004) áp dụng thống nhất cho việc xây dựng, ban hành văn bản QPPL từ Trung ương đến địa phương.

  2. Khi xây dựng và ban hành văn bản QPPL phải tuân thủ những nguyên tắc nào?

Trả lời: Những nguyên tắc khi xây dựng và ban hành văn bản QPPL là:

- Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản QPPL trong hệ thống pháp luật.

- Tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản QPPL.

- Bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản QPPL.

- Bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của văn bản QPPL; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn bản QPPL; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

- Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

- Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL.

3. Theo quy định của Luật năm 2015 thì hệ thống văn bản QPPL ở nước ta gồm những hình thức nào?

Trả lời: Theo quy định tại Điều 3 của Luật năm 2015 thì, hệ thống văn bản QPPL gồm 26 hình thức do 18 chủ thể có thẩm quyền ban hành, bao gồm:

- Hiến pháp.

- Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.

- Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

- Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

- Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.

- Nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh).

- Quyết định của UBND cấp tỉnh.

- Văn bản QPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.

- Nghị quyết của HĐND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).

- Quyết định của UBND cấp huyện.

- Nghị quyết của HĐND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).

- Quyết định của UBND cấp xã.

Như vậy, so với Luật năm 2008, thì Luật năm 2015 không quy định hình thức thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chỉ thị của UBND các cấp. Đối với nghị quyết liên tịch thì chỉ giữ lại hình thức nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ với Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

(còn nữa)

Nguyễn Thị Hương

(Sở Tư pháp)


Ý kiến bạn đọc