Hỏi - đáp một số quy định pháp luật liên quan đến Bộ luật Lao động năm 2019
Hỏi: Tôi làm việc ở Công ty X. đã được 3 năm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Nay tôi nộp đơn xin nghỉ việc và đã báo trước cho công ty 30 ngày nhưng phòng nhân sự của công ty yêu cầu tôi phải bồi thường nửa tháng lương với lý do tôi đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Cho tôi hỏi, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2021 thì công ty yêu cầu tôi bồi thường như vậy có đúng không?
(Võ Minh N.)
Trả lời: Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động thì:
“1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng
c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ”.
Theo quy định nêu trên thì người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động ít nhất là 45 ngày; đối với trường hợp của bạn N., bạn đã ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn với Công ty X., nay nộp đơn xin nghỉ việc và chỉ báo trước cho công ty trước 30 ngày, như vậy thời gian báo trước cho công ty của bạn N. không đúng quy định của pháp luật. Do đó, bạn N. đã thuộc trường đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật được quy định tại Điều 39 Bộ luật Lao động năm 2019: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng theo quy định tại các điều 35, 36 và 37 Bộ luật này”.
Việc phòng nhân sự của Công ty X. yêu cầu bạn N. phải bồi thường nửa tháng lương với lý do bạn N. đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là đúng theo quy định của pháp luật, vì:
Điều 40 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
“1. Không được trợ cấp thôi việc.
2. Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này”.
Như vậy, khi bạn N. đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì bạn N. phải thực hiện các nghĩa vụ được quy định nêu trên, trong đó có việc phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
Hỏi: Từ ngày 1-1-2021, người sử dụng lao động có nghĩa vụ gì khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật?
(Nguyễn Văn T.)
Trả lời: Theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực ngày 1-1-2021, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì người sử dụng lao động có nghĩa vụ sau:
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.
Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật Lao động năm 2019 thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2019 người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật Lao động năm 2019 để chấm dứt hợp đồng lao động.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật Lao động năm 2019, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
(Còn nữa)
Hoàng Thị Hiền (Sở Tư pháp)
Ý kiến bạn đọc