Multimedia Đọc Báo in

Cuộc chiến đấu quyết liệt chống địch phong tỏa bằng thủy lôi trên các cửa biển (Tiếp theo và hết)

08:58, 21/10/2011

Trong những ngày tháng nóng bỏng của năm 1972, là phóng viên của Báo Quân đội Nhân dân, tôi đã đến Hải Phòng để viết bài về cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ phong tỏa bằng thủy lôi, bom từ trường ở cửa biển này. Tôi đến Cục Đường biển ở số nhà 13 đường Võ Thị Sáu, TP. Hải Phòng là đơn vị có nhiệm vụ rất quan trọng trong việc nghiên cứu tìm ra giải pháp phá bom từ trường để lấy tài liệu và thăm một người bạn cùng quê là anh Hoàng Chương. Tôi và Hoàng Chương cùng quê xã Xuân Sơn, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Hai anh em cùng một lứa tuổi (sinh năm 1938), cùng học một lớp bậc Tiểu học thời thơ ấu ở trường làng và cùng nhập ngũ một ngày (9-2-1954) rồi cùng tập kết ra miền Bắc. Sau khi tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành kỹ sư Vô tuyến điện, Hoàng Chương về nhận công tác ở Cục Đường biển. Những năm ấy, khi Cục Đường biển được giao nhiệm vụ phá bom từ trường, Cục đã nhanh chóng thành lập Tổ nghiên cứu và tìm giải pháp phá bom từ trường. Hoàng Chương và các đồng chí Thái Phong, Lê Gia Chưởng là thành viên Tổ nghiên cứu phá bom từ trường, do đồng chí Lê Văn Kỳ, Cục trưởng Cục đường biển trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, tổ đã nghiên cứu và đề xuất phương án “Thiết kế và lắp ráp thiết bị tạo ra từ trường mạnh để gây nổ từ quả bom từ trường”. Chỉ sau một thời gian rất ngắn, Tổ nghiên cứu đã chế tạo thiết bị tạo từ trường mạnh để phá bom từ trường và thành công ngay lần đầu tiên khi áp dụng thiết bị này để phá bom từ trường ở cảng Hải Phòng. Cục Đường biển tiếp tục hợp tác với Bộ Tư lệnh Hải quân khảo sát tuyến vận tải biển và mật độ bom từ trường rải từ cảng Hải Phòng ra cửa biển, đồng thời tham gia rà phá bom từ trường có hiệu quả cao. Kết quả đem lại, nhiều chuyến tàu vận tải lương thực, vũ khí các loại vào các bến cảng ở Quân khu 4 và miền Nam xuất phát tại cảng Hải Phòng, vượt qua nhiều bãi bom từ trường địch rải dày đặc vẫn an toàn và đi đến đích đúng thời gian quy định, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà…

Đội tiếp nhận hàng của Đoàn 962 (Quân khu 9) tiếp nhận vũ khí do Đoàn tàu không số chuyển vào tại bến Rạch Mốc (Cà Mau) năm 1963.       Ảnh: T.L
Đội tiếp nhận hàng của Đoàn 962 (Quân khu 9) tiếp nhận vũ khí do Đoàn tàu không số chuyển vào tại bến Rạch Mốc (Cà Mau) năm 1963. Ảnh: T.L
Tôi đã gặp đồng chí Hồ Đắc Thạnh, thuyền trưởng tàu 41 đã trực tiếp chỉ huy hàng chục chuyến tàu không số vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam. Đồng chí cho biết: “Chiến dịch vận tải VT5 được triển khai trong toàn Quân chủng Hải quân nhằm tận dụng thời gian giặc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc để nhanh chóng chuyển gián tiếp lương thực, vũ khí các loại chi viện vào chiến trường miền Nam qua các cửa biển của Quân khu 4. Sau Hiệp định Pa-ri năm 1972, các đoàn tàu không số xuất phát từ cảng Hải Phòng vào cửa biển Sông Gianh, Nhật Lệ, Cửa Hội, Cửa Việt… nhằm rút ngắn một cung đường phải đi trên bộ, trong lúc đường quốc lộ 1A bị hư hỏng nặng do giặc Mỹ đánh phá chưa khắc phục xong, nhất là nhiều cầu cống bị sập, nhưng với quyết tâm cao, miền Nam chiến thắng đến đâu thì hàng hóa, vũ khí, khí tài các loại (kể cả pháo binh tầm xa, tên lửa, xe tăng…) đều kịp thời đưa tới nơi đó để nhanh chóng chuyển tiếp vào chiến trường miền Nam. Cuộc chiến đấu trên mặt trận chống phong tỏa bằng thủy lôi, bom từ trường của giặc Mỹ diễn ra rất ác liệt, sự hy sinh luôn kề cận bên mình, nhưng vẫn hừng hực khí thế ra quân của toàn Quân chủng Hải quân để mở luồng thông lạch và tàu ra, tàu vào ở các bến cảng.

Tham gia đợt vận tải VT5, tôi liên tục đưa tàu chở lương thực, vũ khí vào các bến cảng của Quân khu 4. Bom từ trường, thủy lôi của địch còn nằm dày đặc như vỏ hến trên các bến cảng, sự hy sinh có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, nhưng không một chiến sĩ hải quân nào chùn bước, Phần tôi là thuyền trưởng nhận hàng xong là muốn nhận được lệnh rời bến ngay để kịp đưa vũ khí tới chiến trường miền Nam. Khi vào đến chiến trường giao hàng xong là muốn quay tàu trở ra miền Bắc ngay để khẩn trương chuẩn bị đi tiếp chuyến khác. Mặc cho bom từ trường và thủy lôi của giặc Mỹ vẫn còn ken dày trên bến cảng, tiếng gọi của miền Nam là thiêng liêng…”.

Ngày 17-12-1972, Ních-xơn lại ngoan cố đẩy thêm một bước leo thang mới rất nghiêm trọng và xảo quyệt trong việc đánh phá miền Bắc bằng máy bay B52 và tiếp tục rải thủy lôi, bom từ trường bịt chặt mọi lối ra vào các cảng biển của miền Bắc. Chúng ta lại bình tĩnh, tự tin bước vào cuộc chiến đấu mới với một tinh thần kiên cường, bất khuất, với một thế trận được chuẩn bị rất đầy đủ để đánh thắng kẻ thù. Ngày 16-1-1973, luồng Nam Triệu lại được khai thông, 6 tàu Hải quân: 213, 217, 203, 205, 150, 416 đã anh dũng mở đường dẫn dắt tàu của Cục Vận tải đường biển từ hòn Sãi Cóc qua phao Số Không, luồng Nam Triệu vào đến Đèn Kính an toàn. Ngày 21-1-1973, 4 tàu Hải quân nữa mở đường dẫn dắt tàu Ghi Sa của Cu Ba đi từ Long Châu vào Sãi Cóc thắng lợi; rồi lần lượt tàu Đa Nhin (Liên Xô), tàu Việt Bảo… từ Hải Phòng ra phao Số Không an toàn. Như vậy, trước khi Hải Quân Mỹ vào “kéo cày trả nợ”, rà quét thủy lôi theo Hiệp định Pa-ri thì chúng ta đã mở thông luồng ở Hải Phòng cho tàu 2.000 đến 16.000 tấn đi lại an toàn, và tất cả các luồng lạch của sông chính đều được khai thông, bảo đảm an toàn cho tàu thuyền ra vào suốt ngày đêm.

Tuy vậy, ta vẫn buộc phía Hoa Kỳ phải rà quét theo Nghị định thư của Hiệp định Pa-ri. Đơn vị đặc nhiệm 77 của Hải quân Mỹ bắt đầu “kéo cày trả nợ”, thực hiện rà quét từ ngày 6-3-1973 đến ngày 18-7-1973. Ngày 20-7-1973 đế quốc Mỹ giao cho Việt Nam 10 bản thông báo đã hoàn thành việc quét lôi trên 10 luồng: Hải Phòng, Nam Triệu, Lạch Huyện, Cẩm Phả, Hồng Gai, Cửa Hội, Cửa Sót, Sông Gianh, Hòn La, Quảng Hưng. Với những phương tiện khá hiện đại của tàu quét lôi MSO và phương tiện MK 105 do máy bay lên thẳng CH53 kéo cùng với một số phương tiện đơn giản khác, Hải quân của giặc Mỹ cũng chỉ làm nổ được 3 quả thủy lôi nằm ngoài luồng Nam Triệu, còn không thể nào quét sạch được những quả thủy lôi chưa nổ còn nằm sâu trong lòng đất ở trên cạn. Sự việc trên chứng tỏ hai điều: trình độ chuyên môn của lính Mỹ rất non kém và thái độ chây lười, thờ ơ “sống chết mặc bay” của đế quốc Mỹ khi buộc phải “kéo cày trả nợ”.
Vì vậy, Hải quân ta cùng với mọi lực lượng khác tiếp tục ra quân, triển khai kế hoạch chia ô, khoanh vùng để quét sạch thủy lôi của địch, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho tàu thuyền đi lại và mọi hoạt động của nhân dân trong công cuộc lao động, xây dựng hòa bình trên các vùng biển mà giặc Mỹ đã phong tỏa thủy lôi.
Đế quốc Mỹ tưởng rằng sử dụng nhiều loại vũ khí kỹ thuật hiện đại nhất với hành động điên cuồng và ngoan cố nhất thì sẽ làm cho chúng ta chuốc lấy thất bại nặng nề. Ở cuối giai đoạn chiến tranh phá hoại, Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt rắp tâm ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của của quân và dân miền Bắc đối với miền Nam. Nhưng chúng đã nhầm to. Với đường lối quân sự đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta, với sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, với lòng căm thù giặc sâu sắc, với tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, khoa học, sáng tạo và với ý chí quyết xả thân cứu nước của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, chúng ta đã chiến thắng đế quốc Mỹ trên mặt trận phong tỏa thủy lôi của chúng nói riêng, và chúng ta đã toàn thắng giặc Mỹ trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Tô Phương
[links()]

Ý kiến bạn đọc