KỶ NIỆM 60 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ (7-5-1954 – 7-5-2014)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến dịch Điện Biên Phủ
Đảng ta nhiều lần phân tích: trong cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, có một mâu thuẫn mà địch không thể nào khắc phục được là mâu thuẫn giữa tập trung binh lực để tạo thành khối quân cơ động chiến lược với phân tán lực lượng ra khắp nơi để chiếm đóng đất đai, “bình định và giành dân”. Vì thế, quân đông bao nhiêu cũng vẫn thấy thiếu; phân tán quân thì bị ta tiêu diệt, tập trung quân thì không có hậu phương, không lấy được chiến tranh nuôi chiến tranh.
Tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp đề ra phương hướng chiến lược: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công lớn vào những hướng quan trọng mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải bị động phân tán lực lượng để đối phó ở những nơi xung yếu mà chúng không thể bỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiêu diệt.
Ngày 10-12-1953, bộ đội tiến công địch ở Lai Châu, bao vây uy hiếp địch ở Điên Biên Phủ. Địch điều quân tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai sau đồng bằng Bắc Bộ.
Đầu tháng 12-1953, ta phối hợp với quân dân Lào tiến công Trung Lào. Nava vội vã điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ sang ứng cứu cho Xênô (nơi tập trung binh lực thứ ba).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (đứng, bên phải) trình bày với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước bàn kế hoạch mở chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ảnh: Tư liệu TTXVN. |
Đầu tháng 2-1954, ta tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum, uy hiếp Pleiku. Nava lại phải điều quân từ Nam Tây Nguyên lên ứng cứu cho Pleiku, biến Pleiku thành nơi tập trung binh lực thứ tư.
Cũng trong tháng 2-1954, ta mở cuộc tấn công ở Thượng Lào, giải phóng Nậm Hu, Phong-xa-lì, uy hiếp Luông Phabang và Mường Sài. Nava lại phải tăng cường lực lượng chốt giữ Luông Phabang, biến nơi này thành nơi tập trung binh lực thứ năm của địch.
Do kế hoạch Nava không thực hiện được theo dự kiến, Pháp quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với lực lượng lúc cao nhất lên đến 16.200 quân, được bố trí thành một hệ thống phòng thủ chặt chẽ gồm 49 cứ điểm. Cả Pháp và Mỹ đều coi Điện Biên Phủ là pháo đài “bất khả xâm phạm”. Như vậy, từ chỗ không có trong kế hoạch, Điện Biên Phủ đã trở thành trung tâm của kế hoạch Nava.
Theo đề nghị của Tổng Quân ủy, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến, chỉ định Bộ Chỉ huy chiến dịch và Đảng ủy Mặt trận. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy chỉ đạo mặt trận Điện Biên Phủ, đồng thời với tư cách Tổng Tư lệnh có nhiệm vụ chỉ đạo các chiến trường khác trên cả nước, kể cả bộ đội tình nguyện của ta ở Lào và Campuchia.
Đầu tháng 1-1954, trước khi lên đường ra mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến Khuổi Tát chào Bác Hồ. Bác hỏi: “Chú ra mặt trận lần này có khó khăn gì không?”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời: “Chỉ khó khăn là xa hậu phương nên khi có vấn đề quan trọng và cấp thiết thì khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị”. Bác nói: “Tổng Tư lệnh ra mặt trận, tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền, có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Bác nhắc: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng; chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. Những lời dặn dò của Bác là tư tưởng chỉ đạo giúp Đại tướng Võ Nguyên Giáp có căn cứ để xử trí trong quá trình chỉ huy trận đánh.
Ngày 14-1-1954 tại hang Thẩm Púa, Sở Chỉ huy đầu tiên của chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phổ biến lệnh chiến đấu theo phương án "đánh nhanh thắng nhanh"… Dự kiến trận đánh sẽ diễn ra trong 2 ngày, 3 đêm. Thời gian nổ súng ấn định lúc đầu là 17 giờ ngày 20-1 và sau đó là 17 giờ 30 ngày 25-1-1954, bằng tiến công ồ ạt đồng loạt, thọc sâu. Phương án này đã được Bộ Tổng tham mưu phê duyệt với sự nhất trí của đoàn cố vấn quân sự trung ương Trung Quốc. Lập luận được đưa ra là nếu đánh sớm khi Pháp chưa tập trung đủ lực lượng và củng cố công sự thì có nhiều khả năng giành chiến thắng.
Tuy nhiên, trong ngày và đêm 25-1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp suy nghĩ và quyết định phải cho lui quân do mấy khó khăn rõ rệt: Thứ nhất, bộ đội chủ lực cho đến thời điểm đó chưa thành công trong việc đánh các công sự nằm liên hoàn trong một cứ điểm. Ví dụ: tại trận Nà Sản bộ đội đã không thành công và bị thương vong nhiều. Thứ hai, trận này là một trận đánh hiệp đồng lớn nhưng pháo binh và bộ binh chưa qua tập luyện, chưa qua diễn tập. Thứ ba, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ trước chỉ quen tác chiến ban đêm ở những địa hình dễ ẩn náu, chưa có kinh nghiệm tấn công đồn ban ngày trên địa hình bằng phẳng, nhất là với một đối phương có ưu thế tập trung máy bay, pháo binh, xe tăng chi viện… Đại tướng cho rằng phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” mang nhiều tính chủ quan, không đánh giá đúng thực lực hai bên, không thể bảo đảm chắc thắng. Ông kiên quyết tổ chức lại trận đánh theo phương án “đánh chắc, tiến chắc”, đánh dài ngày theo kiểu "bóc vỏ" dần tập đoàn cứ điểm.
Chiều 26-1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định hoãn cuộc tấn công. Ông kết luận: “Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra”. Sau này, Đại tướng cho rằng đây là quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân của mình
Quyết định đó ngay lập tức được báo cáo về Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy và đã nhận được sự đồng tình ủng hộ hoàn toàn. Như vậy là chuẩn bị theo phương châm mới, trận đánh lịch sử được lùi lại một tháng rưỡi. Trong khoảng thời gian đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục đánh nghi binh ở Thượng Lào, mở đường rộng hơn, dài hơn chung quanh núi rừng Điện Biên Phủ, rồi lại kéo pháo vào, xây dựng công sự kiên cố hơn, hào được đào sâu hơn, tiếp cận gần hơn căn cứ của quân Pháp. Đồng thời, lương thảo, vũ khí từ hậu phương dồn lên cho mặt trận nhiều hơn. Tất cả chuẩn bị cho trận đánh dài ngày, có thể sang đến cả mùa mưa.
Về chiến thuật tác chiến, Bộ Chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam chủ trương chủ động vây hãm dài ngày; triệt phá đường tiếp tế; tập trung binh hỏa lực tiêu diệt từng cứ điểm từ ngoài vào trong, thu hẹp phạm vi chiếm đóng cho tới lúc Pháp không còn sức để kháng cự; tạo thế chia cắt cô lập với bên ngoài và giữa các cứ điểm, các trung tâm đề kháng với nhau... tiến tới tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm. Cách đánh này cần một thời gian chuẩn bị và chiến đấu dài ngày, thường gọi là “đánh chắc, tiến chắc”, cũng còn được gọi là “ đánh bóc vỏ”, “ vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt”. Bộ binh được đường hào che chắn và có được vị trí tiến công gần nhất có thể, sẽ hạn chế tối đa thương vong khi tấn công.
Theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, khi đã hoàn tất công tác chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ được mở màn vào ngày 13-3-1954. Sau 3 đợt tiến công, 55 ngày đêm chiến đấu ngoan cường, vượt mọi hy sinh, gian khổ “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, Quân đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 7-5-1954, lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” của ta tung bay trên nóc hầm Đờ Cát-xtơ-ri, kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau này, trong hồi ký của mình, tướng Henri Navarre, Tổng Chỉ huy trong thời gian quân Pháp bị thất trận tại trận Điện Biên Phủ, đã khẳng định: “Nếu Tướng Giáp tiến công vào khoảng 25-1 như ý đồ ban đầu thì chắc chắn ông ta sẽ thất bại. Nhưng không may cho chúng ta, ông đã nhận ra điều đó và đây là một trong những lý do khiến ông tạm ngưng tiến công”.
Thắng lợi của Điện Biên Phủ đã để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc:
Một là, có sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thì mới có thắng lợi to lớn trên mặt trận Điện Biên Phủ và trên các chiến trường toàn quốc.
Hai là, phải luôn nắm vững quan điểm thực tiễn, luôn xuất phát từ thực tiễn. Thực tiễn rất sinh động và luôn phát triển, phải luôn bám sát thực tiễn, phân tích mâu thuẫn nội tại, tìm ra quy luật vận động, hành động theo quy luật, có thể mới đi đến thắng lợi. Đông xuân 1953 – 1954 do ta bám sát tình hình, nắm được âm mưu địch, phân tích mâu thuẫn của chiến tranh xâm lược nói chung và của kế hoạch Nava nói riêng, nên Bác Hồ và Bộ Chính trị đã đề ra chủ trương kế hoạch đúng đắn sáng tạo và sắc bén. Ta đã buộc địch phải phân tán lực lượng, điều động địch đến Điện Biên Phủ, nơi ta có điều kiện để tiêu diệt chúng. Tại mặt trận Điện Biên Phủ, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã luôn bám sát thực tiễn địch – ta ở chiến trường, theo dõi từng ngày, biết được sự tăng cường lực lượng của địch, phân tích chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và của ta. Khi phát hiện tình hình địch – ta đã thay đổi thì ta đã kiên quyết thay đổi phương châm từ “đánh nhanh, thắng nhanh” chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, đánh trong 55 ngày đêm giành thắng lợi vĩ đại. Bài học này không những có giá trị trong chiến dịch Điện Biên Phủ mà còn được phát huy trong kháng chiến chống Mỹ và đặc biệt là trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Ba là, phải dựa vào sức mạnh của nhân dân. Nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng trong Đông xuân 1953 – 1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã động viên được sức mạnh của toàn quân, toàn dân trong cả nước, cả nhân dân nước bạn Lào, Campuchia, Liên Xô, Trung Quốc cho nên chúng ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”, Đảng ta đề ra nhiều chính sách đúng đắn huy động được trí tuệ và năng lực sáng tạo, sức người, sức của của toàn dân nhằm mục tiêu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngô Sáu
(Trường Chính trị tỉnh)
Ý kiến bạn đọc