Multimedia Đọc Báo in

Thỏa thuận cắt giảm khí đốt tiêu thụ của EU: Dấu vết của sự chia rẽ

09:09, 29/07/2022

Tại hội nghị bất thường diễn ra ngày 26/7 ở Brussels (Bỉ), Bộ trưởng Năng lượng 27 nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã đạt được thỏa thuận cắt giảm 15% lượng khí đốt tiêu thụ.

Trong một thông cáo, Hội đồng Bộ trưởng EU cho biết: “Trong nỗ lực tăng cường an ninh nguồn cung năng lượng của EU, các nước thành viên hôm nay đạt thỏa thuận chính trị về tự nguyện giảm 15% nhu cầu khí đốt trước mùa đông này”.

Thỏa thuận về kế hoạch khí đốt khẩn cấp của EU có thể được chia làm hai phần, trong đó một phần là những đề xuất được Ủy ban châu Âu (EC) công bố ngày 20/7, phần còn lại là thỏa hiệp về các “trường hợp ngoại lệ” sau khi vấp phải sự phản đối của nhiều quốc gia thành viên.

Theo đó, các nước EU sẽ tự nguyện cắt giảm 15% lượng khí đốt tiêu thụ trong khoảng thời gian từ tháng 8/2022 đến tháng 3/2023 so với mức tiêu thụ trung bình giai đoạn 2017 - 2021. Mục tiêu cắt giảm này có thể trở thành bắt buộc trong trường hợp khẩn cấp về nguồn cung. So với đề xuất ban đầu, thẩm quyền quyết định trường hợp khẩn cấp không thuộc về EC mà sẽ do đa số các quốc gia thành viên quyết định.

Bên cạnh đó, mục tiêu cắt giảm 15% sẽ không áp dụng đối với tất cả các nước EU và các ngành công nghiệp mà sẽ có những “trường hợp ngoại lệ”. Các quốc gia được miễn trừ bao gồm Ireland, Malta và Cộng hòa Cyprus. Các nước này không được kết nối với hệ thống khí đốt của những quốc gia thành viên khác nên không thể được chia sẻ khí đốt dự phòng trong trường hợp khẩn cấp về nguồn cung.

Các nước EU thông qua kế hoạch cùng cắt giảm 15% lượng tiêu thụ khí đốt. Ảnh: Getty Images

Các nước có khả năng xuất khẩu khí đốt sang các nước thành viên khác bị hạn chế, như trường hợp của Tây Ban Nha, có thể đưa ra mục tiêu cắt giảm thấp hơn 15%. Ngoài ra, các nước hoàn thành mục tiêu dự trữ khí đốt trước tháng 8 (bơm đầy 80% kho dự trữ) cũng được phép thực hiện mục tiêu cắt giảm “mềm” hơn. Danh sách này có thể gồm khoảng 10 quốc gia EU, trong đó có Đức và Italy. Các ngành công nghiệp quan trọng, bao gồm ngành sản xuất thép sử dụng rất nhiều năng lượng, có thể được miễn trừ khỏi mục tiêu cắt giảm đã nêu.

Các cuộc tranh luận để khiến các nước EU đồng ý tự nguyện giảm 15% lượng tiêu thụ khí đốt đã bộc lộ rõ sự chia rẽ sâu sắc giữa các quốc gia thành viên trong khối.

Ngay sau khi kết thúc hội nghị, Bộ trưởng Kinh tế Đức Robert Habeck cho biết thỏa thuận vừa đạt được chứng minh EU không thể bị chia rẽ và vẫn đoàn kết khi phải đối mặt với đợt cắt giảm nguồn cung khí đốt mới nhất của Nga. Bộ trưởng Năng lượng Malta Miriam Dalli ca ngợi thỏa thuận là “thông điệp mạnh mẽ về sự đoàn kết”.

Tuy nhiên, theo DW, các cuộc tranh luận để khiến các nước EU đồng ý tự nguyện giảm 15% lượng tiêu thụ khí đốt đã bộc lộ rõ sự chia rẽ sâu sắc giữa các quốc gia thành viên trong khối. Ngay trước và sau khi thỏa thuận được thông qua, nhiều nước thành viên EU đã bày tỏ phản đối hoặc hoài nghi.

Trước thềm cuộc họp ngày 26/7, giới chức EU thừa nhận ít nhất 12 trong số 27 quốc gia thành viên đã nêu quan ngại về đề xuất cắt giảm lượng khí đốt tiêu thụ. Ngay cả sau khi thỏa thuận được thông qua với mục tiêu được đánh giá là thấp hơn kỳ vọng, đại diện một số nước tiếp tục thể hiện thái độ hoài nghi hoặc tìm cách giải thích theo cách riêng đối với mục tiêu cắt giảm.

Bộ trưởng Chuyển đổi sinh thái Italy Roberto Cingolani cho rằng mục tiêu bắt buộc đối với đất nước ông chỉ nên là 7% sau khi đã tính đến mức cắt giảm khí đốt hiện tại so với các năm trước. Bộ trưởng Khí hậu Ba Lan Moskwa, mặc dù bỏ phiếu tán thành thỏa thuận, vẫn khẳng định ngành công nghiệp nước này sẽ không thể bị buộc phải cắt giảm sử dụng khí đốt để giúp đỡ các nước khác.

Còn Hungary, nước duy nhất bỏ phiếu phản đối thỏa thuận, tuyên bố văn kiện này “không chính đáng, vô ích, không thể thi hành và có hại”. Ngoại trưởng Hungary Peter Szijjarto còn đặt câu hỏi về “cơ sở pháp lý” của thỏa thuận và chất vấn EU: “Liệu có ai đó ở Brussels có thể giải thích cho người Hungary rằng tại sao người dân và các công ty Hungary không được sử dụng khí đốt dù Hungary vẫn có khí đốt?”.

Khí đốt được sử dụng trong quy trình sản xuất của hàng loạt ngành công nghiệp, từ luyện kim cho tới ô tô, sản xuất chai lọ thủy tinh, hay đơn giản như tiệt trùng sữa và phô mai. Khí đốt còn được sử dụng để sản xuất điện và nhu cầu sưởi ấm, sinh hoạt của người dân. Giá năng lượng, trong đó có khí đốt, liên tục tăng cao khiến châu Âu đứng bên bờ vực suy thoái kinh tế với mức lạm phát cao kỷ lục ở nhiều quốc gia.

Trong bối cảnh đó, việc cắt giảm khí đốt có thể giáng đòn nặng nề hơn nữa vào nền kinh tế nhiều nước EU vốn đang gặp không ít khó khăn. Những nước thành viên EU như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italy hay Hy Lạp mới trải qua cú sốc kinh tế do nợ công có lẽ không muốn một lần nữa phải “thắt lưng buộc bụng” trong việc tiêu thụ khí đốt.

Mặt khác, nhiều quốc gia Nam Âu không mặn mà với thỏa thuận cắt giảm tiêu thụ khí đốt vì gần như không phụ thuộc vào nguồn cung từ Nga. Ngoài nguồn cung qua các tuyến đường ống từ Bắc Phi, các nước này cùng với Bỉ, Hà Lan, Ba Lan và Litva có thể mua khí đốt hóa lỏng (LNG) từ Mỹ hoặc Qatar.

Riêng trường hợp của Hungary, quốc gia Trung Âu này đang tận dụng vị thế riêng để đàm phán mua thêm khí đốt từ Nga nhằm đảm bảo an ninh năng lượng dài hạn của đất nước. Tuần trước, Ngoại trưởng Hungary Peter Szijjarto đã tới Nga để cố gắng đảm bảo việc gia tăng nguồn cung cấp khí đốt của Nga.

Nhà khoa học chính trị Simone Tagliapietra, chuyên gia cao cấp tại cơ quan nghiên cứu kinh tế Bruegel (Bỉ), cho rằng để khả thi về mặt chính trị, sự đoàn kết năng lượng của EU cần phải được dàn xếp một cách thực tế. Theo ông, EU cần thiết lập cơ chế thanh toán công bằng cho việc chia sẻ khí với những quốc gia dễ bị tổn thương nhất. Tuy nhiên, ngay cả khi mục tiêu cắt giảm sử dụng khí đốt được thực hiện theo thỏa thuận, EU vẫn phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nghiêm trọng.

Hồng Hà (Theo Vietnamplus, VOV)

 

 


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.