Multimedia Đọc Báo in

Nhớ Ka Sô Liễng - ngọn lửa Chăm Hroi giữa đại ngàn

09:17, 27/09/2024

Một con người mà cộng đồng dân tộc Chăm Hroi hết sức tự hào: một đời tìm chữ viết cho dân tộc mình, đắm say khảo cứu sử thi Tây Nguyên, dứt áo quan lại về với màu xanh núi rừng… Cuộc đời nhà nghiên cứu văn hóa Ka Sô Liễng lặng lẽ và sâu trầm như bóng cây kơ nia sừng sững giữa đại ngàn Trường Sơn…

Làm chữ cho dân tộc mình

Lần tôi gặp Ka Sô Liễng là khi ông đã qua tuổi 85, vẫn tràn đầy năng lượng, lao động hằng ngày. Khi ấy, ông đã rời căn nhà tiện nghi ở TP. Tuy Hòa để về rừng ở buôn Kiến Thiết (xã Ea Chà Rang, huyện Sơn Hòa, Phú Yên). Với trăn trở “Sao người Chăm Hroi không có chữ viết?”, Ka Sô Liễng đã suốt đời đi tìm và thành công trong sáng tạo chữ viết cho dân tộc mình.

Nhớ lại những tác phẩm đầu tiên sưu tầm văn nghệ dân gian Tây Nguyên, phải mượn chữ Êđê để ghi chép ký âm, Ka Sô Liễng nói: “Tôi thấy không ổn, bởi không thể hiện hết cái hồn của tiếng đồng bào Chăm Hroi”. Thế là ông mày mò suy nghĩ, mượn một phần chữ Êđê cùng mẫu tự Latin, rồi sáng chế ra chữ viết cho người Chăm Hroi. Cần mẫn ký âm, ghi chép, đối chiếu các bài hát, trường ca Chăm Hroi, rồi ông kiểm chứng qua các già làng bản địa và các nhà ngôn ngữ học. Được nhiều người công nhận là một hướng đi, cách làm khoa học, ông càng say mê với hệ thống chữ viết cho người Chăm Hroi. Bộ chữ Chăm Hroi do Ka Sô Liễng sáng tạo đã cơ bản hoàn chỉnh vào năm 2010 và được chuyển đến Viện Ngôn ngữ học Việt Nam thẩm định, công nhận.

Theo Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận và Nam Bộ đã có chữ viết; riêng người Chăm Hroi ở Phú Yên và Bình Định (trên 30.000 người) thì chưa có chữ viết, nên việc sáng tạo bộ chữ Chăm Hroi của ông Ka Sô Liễng có ý nghĩa hết sức lớn lao.

Đã có nhiều tác phẩm do nhiều nhà xuất bản trong nước in song ngữ Việt - Chăm Hroi, như các trường ca: Tiếng cồng ông bà HBia Lơ Đă, HBia Ta Lúi - Ka li Pu, Anh em Chư BLưng... Ka Sô Liễng còn kiên trì mở lớp dạy chữ cho nhiều con em đồng bào mình. Hai biên dịch kiêm phát thanh viên Chương trình tiếng Chăm Hroi của Đài PTTH Phú Yên hiện nay (Hờ Nguyệt và Nguyễn Ninh) là do ông Ka Sô Liễng dạy chữ, đào luyện.

Ông Ka Sô Liễng tâm sự: “Làm được cái chữ cho dân tộc mình, tôi thấy rất phấn khởi và tự hào. Nhờ có chữ viết, những trường ca của người Chăm Hroi tiếp tục được lưu truyền cho các thế hệ mai sau. Hễ ngày nào còn sức khỏe là tôi còn cố công sưu tầm, ghi chép để lớp trẻ sau này tự hào về dân tộc mình”.

Ông Ka Sô Liễng dạy chữ Chăm Hroi.

Vui thú điền viên

Nhà nghiên cứu, Nghệ nhân ưu tú Ka Sô Liễng (1936 – 2023) là người dân tộc Chăm Hroi. Từ năm 1949 - 1975, ông tham gia hoạt động cách mạng tại nhiều chiến trường trên cả nước. Tốt nghiệp khoa đạo diễn Trường Ðại học Sân khấu - Ðiện ảnh Hà Nội, ông từng giảng dạy mỹ học, đạo diễn sân khấu, Phó Giám đốc Sở VHTT tỉnh Phú Yên. Ông đã sưu tầm, dịch và giới thiệu các sử thi Tây Nguyên như: Xing Chi Ôn, Chi Lơ Kok, Giàng Hlắc xấu bụng, Hbia Ta Lúi - Ka li Pu, Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Ðă, Tìm lại chị em Jông Uốt, Chi Pơ Nâm, Chi Ðê, Anh em Chi BLơng… cùng với các tác phẩm nghiên cứu: Vài nét về văn hóa Chăm, Ghi chép trên đường đi… và một số tập thơ in chung.

Bát ngát quanh nhà Ka Sô Liễng là những hàng xà cừ, keo, bạch đàn, huỳnh đàn, xoan, điều... Cây ăn quả có mít, xoài, dừa, chuối, bưởi, đu đủ... Những cây có giống từ ngoài Bắc cũng được ông đưa vào trồng thử như lồ ô, cọ, vầu... Rồi còn rất nhiều cây cảnh. Chưa hết, ông còn giới thiệu có nuôi trên 100 con gà giống bản địa để lấy trứng và bán thịt; lại còn nuôi cá nước ngọt và dự định sẽ nuôi thỏ, cheo và tắc kè.

Từ khi về vườn, ông như đã quên bẵng những cuộc “hội họp, ký tá, lên xe, xuống ngựa”. Để lại ngôi nhà ở phố Tuy Hòa cho con ở, ông về với mấy héc ta đất đồi, nơi có nhiều đá dăm, đá tảng mà dân ở đây chê là đất “chó ăn đá, gà ăn sỏi”. Vợ chồng ông xây nhà, khoan giếng, đào ao, cất trại chăn nuôi... vui thú điền viên. Ông cười hiền: “Từ khi thoát khỏi cảnh tù túng ở phố về sống với núi rừng, lắc xắc công việc làm vườn vậy mà thảnh thơi, tui luôn thấy mình khỏe ra! Tui muốn chứng minh rằng, không có đất nào là xấu, chỉ có mình siêng năng và biết làm hay không mà thôi, vì trước đây ai cũng chê chỗ này là đất cằn”. Rồi ông lại rủ rỉ: “Mình chỉ nghĩ đơn giản, trồng cây là một thú vui như đi sưu tầm, viết sách về văn hóa dân tộc; trồng cây cho xanh vườn, xanh nhà, mát mắt là sướng rồi. Rừng tự nhiên tranh nhau khai thác cạn kiệt, đất vườn nhà trơ trọi không một bóng cây. Đấy là cái tội của con người xử tệ với đất. Tôi muốn nói với mọi người: hãy trồng cây cho đất thở. Đất thở là để mình sống”.

Lần ấy, chia tay Ka Sô Liễng, chúng tôi như còn nghe giọng ông hồn nhiên trầm ấm với bài hát ru của người Chăm Hroi: “Ơ… con trâu cái mình cũng đẹp/ cặp sừng uốn cong cong, cũng đẹp/ đôi mắt cũng đẹp/cổ thon dài, đầu ngửng cao/ trọn hiến cho ông trời/ ông bà trời vừa lòng lắm…”.

Đào Đức Tuấn


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.