Có một dòng văn học chiến trường K
Các nhà nghiên cứu, lý luận xếp văn học nước ta sau năm 1975 là văn học thời hậu chiến với các giai đoạn 1975 - 1985, 1986 - 1991 và từ năm 1991 đến nay. Mỗi thời kỳ có đặc trưng riêng về nội dung, thi pháp, khuynh hướng sáng tác và những tác giả, tác phẩm tiêu biểu…
Từ góc nhìn cá nhân, tôi nhận thấy trong mênh mông dòng chảy văn học Việt Nam đã phát lộ một dòng sáng tác của các nhà văn, chiến sĩ từng tham gia chiến trường K (chiến trường Campuchia trong chiến tranh biên giới Tây Nam từ năm 1979) mà tôi tạm gọi là dòng văn học chiến trường K.
Các nghệ sĩ nói chung, nhà thơ, nhà văn nói riêng từng tham gia chiến trường K sáng tác từ rất sớm. Tuy nhiên, những sáng tác có chất lượng, dồn dập thì mới xuất hiện khoảng chừng một thập niên trở lại đây. Có thể điểm danh đội ngũ nhà văn, nhà thơ xuất thân mặc áo lính ở chiến trường K chuyên nghiệp và không chuyên như phía Bắc có nhà văn Trung Sỹ, miền Trung có Trần Bình (Quảng Trị), Trần Ngọc Phương (Đà Nẵng), Nguyễn Tam Mỹ (Đà Nẵng)…
![]() |
Cuốn sách “Ký ức K” của tác giả Trần Bình. |
Nhà văn Trung Sỹ có “Chuyện lính Tây Nam” và hàng chục truyện ngắn về đề tài chiến trường K; nhà thơ Trần Bình có “Ký ức K”; Trần Ngọc Phương có “Mưa trên đồng À na cút”, “Món tráng miệng cuộc đời”; Nguyễn Tam Mỹ có “Chinh chiến nơi miền đất lạ”, “Dưới bóng rừng thốt nốt”…
Gần đây nhất, đọc “Chuyện lính Tây Nam” của nhà văn Trung Sỹ, có 19 đoản khúc đầy ám ảnh và tôi còn nhớ những câu thơ của nhà văn viết trong Lời tựa lẫn Lời bạt: “Ba mươi sáu phố phường yêu dấu ta ơi/ Mỗi một người đi nhói tên một phố/ Gió chôn vội mắt đêm nhiều ô cửa/ Sáng nay mưa buồn lòng còn mỗi ngoại ô”.
Vì sao trong khoảng một thập niên trở lại, văn học về đề tài chiến trường K trở nên sôi động? Theo tôi, hơn 40 năm là quãng thời gian cần thiết và đủ độ lùi để những chiến sĩ ngày ấy nhìn nhận cuộc chiến. Và chừng đó thời gian cũng đủ cho những chàng lính trẻ mười tám, đôi mươi từng trải để hiểu đời, hiểu người và cả ý thức văn chương.
Cuốn hồi ký “Ký ức K” (Nxb Hội Nhà văn, 2023) của Trần Bình, một tác giả quê Quảng Trị dày dặn 300 trang có kèm ảnh tư liệu minh họa. Đây là câu chuyện của người trong cuộc, chỉ người trong cuộc mới viết được. Nó thuyết phục bởi độ xác thực của câu chuyện phi hư cấu và xúc động bởi tác giả là người nặng lòng với hồi ức. Tác giả tự nhận “là người may mắn giữ lại được gần như nguyên vẹn những trang nhật ký viết từ thuở hai mươi trong những cuốn sổ nhỏ…” (Lời tác giả, trang 5). Nhờ những trang nhật ký của Trần Bình mà độc giả biết rõ hơn về cuộc chiến, hiểu hơn những gian khổ, hy sinh của những người lính Việt Nam trên chiến trường K, dù những năm tháng đó đã lùi xa hơn bốn thập kỷ.
Bắt đầu những dòng nhật ký từ tháng 7/1983 và dừng lại vào tháng 10/1987, Trần Bình đã tái hiện sinh động hình ảnh người lính tình nguyện Việt Nam trên đất bạn Svay Rieng, Campuchia (Phần I - Nhật ký lính tình nguyện). Phần II - Chuyện lính tình nguyện vẫn là sự chắt lọc những câu chuyện từ trong nhật ký cá nhân nhưng xen lẫn vào đó là những câu chuyện không ghi ngày tháng, những lá thư của người yêu, bạn bè, những kỷ niệm tác giả nhớ và kể lại, những mảnh ký ức từ đồng đội mà tác giả gom nhặt bằng câu chữ, và có cả những bài thơ đầy chất lính. Phần còn lại của tập sách là bài thơ dài có tên “Bài thơ Cam Bốt” mang dáng vóc trường ca.
Mang cả tuổi thanh xuân vào chiến trường K, Trần Bình mang theo một trời ký ức thương nhớ quê nhà: “Trăng sáng vằng vặc, cảnh trí gợi về nỗi nhớ làng quê, nhớ những tối sáng trăng cùng bè bạn dạo chơi trên đường xóm, những tối trăng như thế này là những tối trăng đẹp của tuổi trẻ khao khát tình yêu”… (trang 38). Tuổi mười tám, đôi mươi là vậy, nhưng đó chỉ là ký ức luyến nhớ bởi nói như nhà thơ Thanh Thảo, “ai cũng tiếc thì còn chi Tổ quốc”. Những trang nhật ký của Trần Bình cứ thế, miên man dẫn người đọc về vùng hồi ức của tác giả. Ở đó, người lính chiến trường K phải đối mặt không chỉ đạn bom, đói khát, bệnh tật mà còn đối diện với chính mình trong những hoàn cảnh nghiệt ngã, đòi hỏi phải có bản lĩnh và lý tưởng sống mới có thể vượt qua. Và như tác giả viết, đã ra chiến trường thì người lính chỉ có thể tiến về phía trước: “Đã là người lính thì phải luôn chấp hành mệnh lệnh. Mình sẽ xin “tuân lệnh” tất cả” (trang 43). Dù biết phía trước là sinh tử thì những câu thơ vẫn lóe lên một ánh sao trời: “Đêm trước ngày hành quân/ Vô tư giấc ngủ/ Chẳng cần biết ngày mai/ Cái chết đến như một khái niệm/ Mìn Long An nổ dưới chân đi/ Thân xác tả tơi/ Hóa ngọn sao trời/ Vụt xao xác ngang chiều Chùa Tháp”… (trang 79).
Như mọi dòng văn học khác, những tác phẩm viết về chiến trường K nhắc nhớ thế hệ sau về một giai đoạn mà người lính tình nguyện Việt Nam không chỉ đổ xương máu để bảo vệ biên cương của Tổ quốc, mà còn góp phần giúp đất nước Chùa Tháp chống lại nạn diệt chủng tàn bạo và phi nhân.
Thật khó kể hết những chi tiết đời thường mà ám ảnh trong các tác phẩm viết về đề tài chiến trường K. Trang viết nào cũng ăm ắp hình ảnh người lính với những chiến dịch, chiến trận, chiến cuộc. Đau thương, mất mát có, tình cảm nhớ nhung quê nhà, người thân, bạn bè có, hồn nhiên, thơ mộng có, dằn vặt, suy tư đều có. Nhưng tất cả thuyết phục người đọc bởi nó được khai thác từ chất liệu cuộc chiến, là nơi người ta tự trải lòng mình một cách chân thực, không làm dáng bằng kỹ thuật văn chương, không uốn éo chữ nghĩa và viết ra chỉ bởi nhu cầu tự thân là trước hết.
Bằng những trang viết sinh động, các tác giả và tác phẩm về đề tài chiến trường K đã tái hiện và nhắc nhớ chúng ta về một ký ức tưởng đã xa xôi, cách nay trên dưới bốn thập kỷ. Một cuộc chiến mà dấu vết của nó vẫn còn tươi ròng trong lòng các cựu binh. Như thế, người đọc cũng như tác giả sẽ không bao giờ cho phép ai đó lãng quên, bởi ký ức còn nối dài rất lâu thời hậu chiến, như lời tác giả Trần Bình đã nói bằng thơ: “Lúc ngã xuống, con vừa tròn mười tám/ Trái tim tươi bầu máu nóng nhiệt thành/ Chưa kịp nhận một lời yêu con gái/ Làm sao quên/ Làm sao quên…!”.
Phạm Xuân Hùng
Ý kiến bạn đọc