Multimedia Đọc Báo in

Khi cơn bão đi qua

08:41, 29/10/2025

Cơn bão đi qua

Thẫn thờ cơn bão đi qua

Hiện trong đáy mắt làng ta võ vàng

Con thuyền uể oải sang ngang

Chập chồm ếch nhái nhảy hoang cả đồng

 

Nâng lên lúa sót vài bông

Nghe lòng nghèn nghẹn phiêu bồng bát cơm

Vần vò lũn nhũn cọng rơm

Trâu bò uống nước máy bơm trôi ngày

 

Đất nâu im ỉm giãi bày

Trời xanh quơ xuống bàn tay trụi trần

Lấy đâu ăn đủ mười phân

Ông sang chiếm hết, thằng bần để ai?

 

Sức người bền bỉ dẻo dai

Ngàn năm chinh phục dặm dài thiên nhiên

Bếp nhà lại khói bay lên

Du dương sáo trúc thổi miên man chiều.

 

Lưu Thiện Vương

Mỗi năm, người dân trên mảnh đất hình chữ S yêu thương phải chống chịu với hàng chục cơn bão. Mưa bão, lũ lụt năm nào cũng đến nhưng khi nào cũng đầy ám ảnh. Bởi mưa bão ấy đã bao lần như chiếc chổi xể khổng lồ quét tan hoang làng mạc, cuốn đi bao công sức lao động của con người. Bài thơ “Cơn bão đi qua” của Lưu Thiện Vương tái hiện lại phần nào những mất mát, nhọc nhằn của người dân khi chịu cảnh bão lũ đọa đày.

Mỗi năm, trên dãi đất hình chữ S gánh chịu hơn chục cơn bão. Ảnh: Chinhphu.vn
Mỗi năm, trên dãi đất hình chữ S gánh chịu hàng chục cơn bão. Ảnh: Internet

Dường như mưa bão đã là chuyện thường niên muôn thuở vậy mà vẫn chẳng thể quen. Ngay ở khổ thơ đầu, sự không quen đó được thể hiện rất rõ qua từ “thẫn thờ”. Một trạng thái, một ánh nhìn “trong đáy mắt” cho thấy sự mệt mỏi, hụt hẫng của con người. Bão đã qua rồi, làng còn lại gì sau bão? Con người qua bao ngày chống chọi với mưa gió, bão lụt đã trở nên mệt mỏi, xanh xao, hốc hác. Đưa mắt nhìn chỉ thấy “ếch nhái nhảy hoang cả đồng”. Dù mưa đã ngừng, bão đã qua nhưng nước vẫn chưa kịp rút. “Con thuyền uể oải sang ngang” hay chính lòng người uể oải sau bao ngày gồng mình chống chọi với bão lũ, nhìn lại vẫn mênh mông trắng đồng.

Hiện thực sau bão được tác giả khắc họa một cách rất chân thực, cụ thể qua đoạn thơ thứ hai: Nâng lên lúa sót vài bông/ Nghe lòng nghèn nghẹn phiêu bồng bát cơm/ Vần vò lũn nhũn cọng rơm/ Trâu bò uống nước máy bơm trôi ngày.

Hình ảnh vài bông lúa sót, cọng rơm lũn nhũn, trâu bò uống nước máy bơm có sức gợi lớn, sức ám ảnh mạnh mẽ tới tâm trí người đọc. Đâu còn là mùa vàng óng ả, đâu còn cây lúa trĩu bông, đâu còn sự hứa hẹn bội thu với nét cười mùa vụ. Chỉ còn lại sự xa xót đến bải hoải. Câu thơ “Nâng lên lúa sót vài bông” đọc lên sao rưng rức thương, rưng rức đau. Không quản nắng mưa mệt nhọc chăm bẵm, giờ chỉ còn vài bông lúa sót, hy vọng bát cơm cũng trở nên “phiêu bồng”, bảo sao lòng chẳng “nghèn nghẹn” xót xa. Sự sống sau bão thật không dễ dàng gì. Đối với con người thì “phiêu bồng bát cơm”, đối với vật nuôi thì “uống nước máy bơm” cho qua ngày, bởi nước lụt khắp nơi, cỏ xanh đâu có, ngay cả món ăn “chống đói” - cọng rơm cũng “lũn nhũn” hỏng rồi.  

Một chút giận hờn, một chút trách móc cao xanh: “Trời xanh quơ xuống bàn tay trụi trần”, “Ông sang chiếm hết, thằng bần để ai?” ở khổ thơ thứ ba. Nhưng với tinh thần lạc quan, luôn nhìn về tương lai, con người không dễ gì buông xuôi, bỏ cuộc: Sức người bền bỉ dẻo dai/ Ngàn năm chinh phục dặm dài thiên nhiên/ Bếp nhà lại khói bay lên/ Du dương sáo trúc thổi miên man chiều.

Phải chăng tinh thần lạc quan, luôn hướng về phía trước ấy được bắt nguồn từ quyết tâm “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” (Bài ca vỡ đất, Hoàng Trung Thông) và từ truyền thống của ông cha ta xưa, với niềm tin “Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. Với tình yêu lao động, với niềm lạc quan vào “Sức người bền bỉ dẻo dai” thì khó khăn, cơ cực nào, con người cũng có thể vượt qua. Thiên nhiên dù có hung hăng đến bao nhiêu thì cuối cùng cũng bị chinh phục, cũng sẽ hiền hòa lại.

Hai câu cuối bài là mơ ước của tác giả về một cuộc sống thanh bình, yên ả không bão lũ: “Bếp nhà lại khói bay lên/ Du dương sáo trúc thổi miên man chiều”. Đó cũng chính là hình ảnh thân thuộc ở mỗi làng quê Việt Nam với tiếng sáo du dương, với hình ảnh khói bếp quen thuộc gợi về trong mỗi người một mái nhà thân thương, ấm cúng.

Trương Thị Thúy
 


Ý kiến bạn đọc