Multimedia Đọc Báo in

Kinh hoàng “hơi cay” CS

08:40, 11/08/2024

Bảo tàng Chứng tích chiến tranh TP. Hồ Chí Minh trưng bày các hiện vật như: rocket khói độc CS-70 ly, lựu đạn CS, lựu đạn CS M7A3.

Những hiện vật này là minh chứng về việc quân đội Mỹ đã sử dụng rất nhiều loại chất độc hóa học gây nên hậu quả kinh hoàng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Theo TS. Trần Xuân Thảo, Giám đốc Bảo tàng Chứng tích chiến tranh TP. Hồ Chí Minh, qua các tài liệu cho thấy, khi thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược tại Việt Nam, bên cạnh những loại vũ khí gây sát thương, quân đội Mỹ còn đưa vào Việt Nam một lượng hóa chất khổng lồ.

Ngày nay, hậu quả của việc quân đội Mỹ sử dụng chất diệt cỏ như chất độc da cam đã ngày càng trở nên rõ ràng, được cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ công nhận, nhưng hậu quả của các chất độc hóa học khác thì vẫn chưa được nhiều người nhắc đến, trong đó có chất độc CS.

Chất CS là tên thường gọi của hợp chất 2-chlorobenzalmalononitrile có công thức hóa học C10H5ClN2. Dù thường được xem là một trong những loại “hơi cay” (tear gas), nhưng thực chất CS không phải là khí mà tồn tại ở dạng bột mịn màu trắng ngà, có mùi hạt tiêu nhẹ.

Chất CS được phân loại là chất độc cấp tính, gây kích ứng, độc hại đối với môi trường, cơ thể con người và động vật. Mắt, hệ hô hấp và da là những cơ quan bị gây tổn thương chính bởi loại chất độc CS. Nếu CS xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp sẽ kích ứng phế quản gây bỏng rát, ho, tức ngực, khó thở, ói mửa, co thắt phế quản và bệnh lở phế quản.

 
Hiện vật chứa CS đang trưng bày tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh TP. Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, do CS dễ bị hấp thụ trên bề mặt vật liệu xốp như len, dạ, vải, gỗ, ngói, rơm rạ… nên khi được phun rải sẽ dễ dàng bám lên quần áo, tóc hay đồ vật, khiến nạn nhân dễ bị nhiễm độc hơn. Thậm chí, khi nạn nhân đang bị phơi nhiễm CS tiếp xúc với người khác, chất độc sẽ gây phơi nhiễm thứ cấp lên người mới… Nhiều công trình nghiên cứu còn chỉ ra những tác động gây ung thư và đột biến gen của CS.

Quân đội Mỹ bắt đầu sử dụng chất độc CS tại Việt Nam từ năm 1962 và khi đó được miêu tả như một loại “hơi cay”. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở những tác hại về mặt thể chất mà CS còn gây ra hậu quả kinh hoàng về mặt tinh thần cho nạn nhân.

Ông Amos Fries, Giám đốc Cơ quan Chiến tranh hóa học của quân đội Hoa Kỳ từng nhận định vào năm 1968: “Con người dễ dàng duy trì tinh thần khi đối mặt với làn đạn hơn là khi có sự hiện diện của khí vô hình (invisible gas)… Hơi cay dường như là một cách phù hợp đáng ngưỡng mộ với mục đích cách ly cá nhân khỏi linh hồn của đám đông, khiến anh ta bị rơi vào một tình trạng không thể nghĩ gì khác ngoài việc giải tỏa nỗi đau khổ của chính mình. Trong những điều kiện như vậy, một đội quân tan rã và một đám đông không còn nữa, nó trở thành một sự giẫm đạp mù quáng để thoát khỏi nguồn của sự tra tấn”.

Thực chất, lo ngại trước sự phản đối của cộng đồng quốc tế, chính quyền Mỹ đã có nhiều do dự và sau đó đã hạn chế việc sử dụng chất độc, trong đó có chất CS, nên vào tháng 4/1965 đã ra lệnh cho quân đội không sử dụng “hơi cay” trong bất kỳ hoạt động nào nữa. Thế nhưng sau đó, William Westmoreland - Tư lệnh Bộ Chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (1964 - 1968) đã tìm cách hủy bỏ lệnh cấm bằng việc chứng minh hiệu quả của CS. Từ đó, Mỹ lại tiếp tục triển khai và ngày càng tăng cường sử dụng chất CS trong các hoạt động quân sự. Đến ngày 16/10/1965, Westmoreland đã công khai ra lệnh cho binh sĩ Mỹ có toàn quyền sử dụng hơi độc trong tác chiến.

Mãi đến năm 1971, quân đội Mỹ mới ngừng việc sử dụng các loại chất độc hóa học trong chiến tranh xâm lược tại Việt Nam. Trên thực tế phần lớn các thùng phuy chứa chất diệt cỏ lúc đó ở tình trạng bị thủng, hoen rỉ hoặc bẹp móp và không thể được vận chuyển trực tiếp về đảo Johnston. Do vậy, khoảng hơn 50% các thùng phuy này đã được tháo dỡ, hóa chất được thu gom và sang chiết vào các thùng lành lặn để vận chuyển ra khỏi Việt Nam. Thế nhưng, số phận của CS và các hóa chất khác không được công bố chi tiết. Trong khi đó, lính Mỹ khi sơ tán doanh trại và hỏa lực của mình vào giai đoạn cuối chiến tranh, họ lại tiếp tục đốt hoặc chôn các kho hóa chất không sử dụng hoặc bị hỏng, bao gồm CS, chất khử trùng, dung môi và thuốc trừ sâu.

Vì vậy, chất độc CS và các vũ khí, phương tiện chứa CS vẫn còn tồn lưu với số lượng khá lớn, chủ yếu là ở các kho, căn cứ quân sự cũ và nằm rải rác ở các cánh rừng, nương rẫy ở hầu hết các tỉnh miền Nam Việt Nam. Do đó, việc xử lý chất độc CS còn tồn đọng trên vùng lãnh thổ của Việt Nam sau chiến tranh vẫn còn là vấn đề cấp bách, đòi hỏi quá trình xử lý khoa học với nhiều công sức và chi phí để bảo đảm an toàn đời sống cho người dân.

Tường Mạnh


Ý kiến bạn đọc