Vang bóng thuyền xưa
Những con thuyền chở nặng tâm linh; những con thuyền từng gắn với một giai đoạn lịch sử hào hùng, tạo cảm xúc cho thơ, nhạc, kết tinh nên những bài ca đi cùng năm tháng, với người J’rai ở làng Nú, xã Ia O (Ia Grai – Gia Lai) giờ đây chỉ còn trong ký ức...
Đẽo thuyền - nghề của Yang cho
Nhìn chồng thận trọng tháo chiếc rìu treo trên vách bếp ám khói xuống lau chùi, bà Pêng biết ngày mai ông Pêng lại lên núi đẽo thuyền cho ai đó. Việc rẫy đang cần ông ở nhà nhưng bà cũng không cản… Làm thuyền không phải là một nghề, nó cũng như đẽo tượng mồ, làm nhà mả, người ta có trả công thì cũng mang tính tượng trưng. Thế nhưng việc làm của ông không phải không liên quan gì tới bà: Khi cây gỗ làm thuyền chưa được hạ xuống, bà ở nhà phải kiêng các việc nặng như bổ củi, cuốc đất; không được tắm rửa, gội đầu và nhất là không được làm rượu cúng Yang… Chồng được Yang cho cái tay khéo, làm được việc không ai làm được, không kiêng sẽ làm Yang giận. Vợ với chồng, Yang đã cột chung một cái dây; người này ngã thì người kia cũng ngã. Bởi thế xưa nay bà vẫn không dám cãi lệ ông bà…
“Ơ Yang Kông, Yang Ia hãy về đây phù hộ cho cây gỗ đổ xuống yên lành; cho con thuyền dù sóng to gió lớn vẫn bơi như con cá trên sông; cho chủ nó mạnh chân sáng óc, đi thả lưới được cá nhiều; làm rẫy, rẫy được nhiều lúa, ơ Yang!”. Vừa gại lưỡi rìu sáng xanh ánh thép, ông Pêng vừa lẩm nhẩm lời khấn Yang đã nhập tâm. Cứ mỗi con thuyền ra đời, ông phải đọc hai lần lời khấn ấy: Lần thứ nhất là khi chọn được cây gỗ ưng ý và hạ nó xuống; lần thứ hai khi con thuyền đã hoàn thành và “hạ thủy” an toàn. Lễ vật cho mỗi lần cúng đơn giản cũng phải con gà, ghè rượu…
![]() |
Thuyền độc mộc. |
Làm thuyền là một công việc nặng nhọc và đôi khi nguy hiểm. Chỉ với một chiếc rìu (chỉ được dùng vào mỗi việc đẽo thuyền, tuyệt đối không được dùng vào việc khác) dưới bàn tay khéo léo và cần mẫn của người thợ, chiếc thuyền độc mộc trên sông Pô Kô đã thành như một nét “văn” không thể lẫn: Giữa sắc trời xanh ngắt của đại ngàn, trong tiếng réo sôi của miên man ghềnh thác, con thuyền lướt đi nhẹ nhàng như một cánh hoa ai thả trên sông… Để có một con thuyền mảnh mai, gan góc, chấp thác ghềnh sóng dữ, người thợ phải có con mắt tinh tường và đôi tay khéo léo bẩm sinh… Gỗ dùng làm thuyền được chọn là cây sao xanh, có đường kính từ một người ôm trở lên; dài 5 – 6 m, không chà ngạnh. Hạ được cây xuống rồi, người ta tiến hành đẽo thuyền ngay tại rừng, vừa đẽo vừa đốt lửa hong. Một con thuyền cỡ trung bình như thế, người thợ phải cần thời gian tối thiểu nửa tháng ở rừng. Khó nhất là phải làm sao cho con thuyền khi xuống nước nổi đều (không được phép sửa chữa khi đã hạ thủy). Để được như vậy, người thợ làm thuyền ở đây có một cách khá là… huyền bí: Họ lật úp thuyền xuống, đặt một quả trứng gà theo chiều đứng vào chính giữa lưng thuyền. Nếu quả trứng không đổ thì chiếc thuyền khi xuống nước sẽ không nghiêng lệch…
Mỗi chiếc thuyền hạ thủy là một ngày hội đối với dân làng. Người có gà góp gà, người có rượu góp rượu, cùng với gia chủ hình thành một bữa tiệc cộng đồng. Người thợ làm thuyền sẽ được gia chủ mời rượu trước tất cả mọi người như một phần thưởng cho tài nghệ và công lao…
Bà Pêng cứ ngỡ là chồng được ai nhờ đi làm thuyền thật, hóa ra không phải… Săm soi một hồi, ông Pêng thở dài rồi treo chiếc rìu lên chỗ cũ. Ông nhớ nghề?
Đêm trắng của những con đò chống Mỹ
Nói đến con thuyền độc mộc trên dòng Pô Kô những năm đánh Mỹ, không thể không nói đến người lái đò anh hùng A Sanh...
A Sanh tên thật là Puih San. Sinh ra tại làng Nú này, chiến công của ông cũng gắn bó với sông nước Pô Kô hùng vĩ. Con thuyền độc mộc của ông đã hơn 1.000 ngày đêm chống chọi với dòng nước xiết, trên đầu là bom đạn quân thù, đưa hàng trăm đoàn quân qua sông đánh Mỹ... Đêm trắng và hình ảnh người lái đò anh hùng đã tạo cảm xúc cho bài ca đi cùng năm tháng “Người lái đò trên sông Pô Kô” của nhà thơ - nhà báo Mai Trang và nhạc sĩ Cầm Phong. Tuy nhiên, trên dòng sông này không chỉ một A Sanh.
Dù năm tháng đã lùi xa, trong ký ức của ông Pêng vẫn in đậm hình ảnh hào hùng của con thuyền độc mộc những năm đánh Mỹ: Khi bóng đêm vừa sẫm mặt sông, những con thuyền độc mộc từ mọi nẻo đã băng băng cưỡi sóng đón bộ đội. Không thể đếm, không thể nhớ bao nhiêu người lính đã qua sông trên những con đò mảnh mai này. Biết bao con người dọc sông Pô Kô đã hóa thân thành những A Sanh lặng lẽ và ông Pêng cũng là một “A Sanh”, từng chèo thuyền đón đưa bộ đội hơn một năm ròng… Chính vì điều này mà cho đến bây giờ người ta vẫn tranh cãi chưa dứt về cái tên “A Sanh”. Có người cho rằng đó là “bí danh” của Puih San lúc tham gia hoạt động cách mạng ở làng. Tuy nhiên nhiều người lại cho rằng “A Sanh” là cái tên xuất phát từ “sự nhầm” của nhà thơ, nhà báo Mai Trang. Puih San là người J’rai, tiếng Việt còn lơ lớ nên khi nói tên mình là “San” thì bị ghi thành “Sanh”. Còn “A”, người Xê Đăng vốn không có họ; sau này đàn ông thường thêm “A” , phụ nữ là “Y” trước tên riêng cho dễ gọi. Mới vào chiến trường Tây Nguyên, nhà thơ cứ nghĩ hẳn người J’rai cũng như Xê Đăng vậy. Từ cái tên riêng của một người, A Sanh đã thành cái tên chung cho tất cả mọi người...
Về điều này, xin dẫn một đoạn trong bài viết “Sự tích về bài hát “Người lái đò trên sông Pô Kô”” của nhà văn Trung Trung Đỉnh – người lính chiến trường Tây Nguyên năm xưa: “A Sanh, ấy là cái tên được nhà thơ, nhà báo Mai Trang sáng tác dựa trên một nguyên mẫu có thật. Ngay cả nhà thơ cũng không biết rằng, tên nhân vật của mình ngay sau khi ra đời liền trở thành biểu tượng, thành cái tên chung cho những người lái đò trên các dòng sông ở Trường Sơn: “A Sanh ơi, cho mình qua sông với”; “A Sanh ơi, đêm nay đơn vị nào được ưu tiên qua sông trước?”. Có những bến sông các chiến sĩ lái đò được lính ta gọi A Sanh là chiến sĩ gái. Lại có những bến sông A Sanh là chiến sĩ trai. Có bến sông A Sanh là bộ đội chủ lực. Lại có bến sông A Sanh là bộ đội địa phương, là dân quân du kích. Chỉ có bài hát về A Sanh là bao gồm tất cả, bởi khi cất tiếng hát lên, ai cũng thấy có mình trong đó...”
*
Đã thật lâu rồi không thấy ai đến nhờ ông Pêng đẽo thuyền nữa. Lớp thanh niên chưa thấy ai thế mà lớp già thì cứ rụng dần. Cả làng Nú bây giờ chỉ còn lại ông Pênh và người anh trai Rơ mah Duyt nữa mà thôi…
Biết làm thuyền từ lúc còn thanh niên, ông Pêng không thể nhớ mình đã làm ra bao nhiêu con thuyền. Xưa kia các làng dọc sông Pô Kô này nhà ai chẳng có thuyền. Con thuyền độc mộc gắn với mỗi bước chân lên rẫy, với mỗi niềm vui, nỗi buồn trên sông... Nhưng rồi cuộc sống mỗi ngày một đổi thay. Không còn lang thang theo rẫy như thời du canh du cư, rồi thì rừng càng ngày càng lùi xa, gỗ lớn làm thuyền hiếm dần… Đặc biệt là sự xuất hiện của những chiếc xe máy đã khiến niềm vui sông nước nguội dần. Có một thời người ta đua nhau bán thuyền. Mỗi con thuyền còn sử dụng được trên chục năm chỉ có 3 - 4 triệu đồng tùy lớn nhỏ. Làng Nú cách đây mươi năm nhiều thuyền là thế, nay chỉ còn vỏn vẹn 4 nhà. Con thuyền độc mộc gần như chỉ còn lóe sáng niềm vui mỗi năm một dịp huyện tổ chức đua thuyền...
Vẫn biết là không thể khác, mà ông Pêng vẫn thấy buồn…
Ngọc Tấn
Ý kiến bạn đọc