Ly kỳ cuộc đời của một thương binh
Thương binh Ngô Minh Thơ có mặt những ngày đầu thành lập Đại đội K60, đơn vị bảo vệ bến Vũng Rô, đón những chuyến tàu Không số cách đây 61 năm. Ông và đồng đội chiến đấu giáp lá cà để bảo vệ tàu và bến trong “sự kiện Vũng Rô” - tàu 143 bị lộ.
Sau đó, ông được điều chuyển nhiều đơn vị, chiến đấu dũng cảm, gan dạ. Ông bị địch bắt, tống vào khu biệt giam địa ngục trần gian – nhà tù Cây Dừa (Phú Quốc). Trở về, ông chiến đấu đến ngày thống nhất đất nước và tiếp tục phục vụ trong quân đội cho đến năm 1980. Về với đời thường, thương binh 2/4 Ngô Minh Thơ tiếp tục thành công trên mặt trận kinh tế...
![]() |
Ông Ngô Minh Thơ. |
Ở tuổi 77, vết thương cũ hành hạ, khiến ông Thơ nằm liệt giường, rồi gắng gượng ngồi xe lăn, nhưng trí óc thì minh mẫn. Ông đã nhớ và kể lại, hoàn thành và ra mắt tập sách mang nhiều chất tự truyện, hồi ký, như một kỷ vật sống động cho chính mình, cho đồng đội và thế hệ sau về hành trình máu lửa, kiên trung, bất khuất của người lính.
Tập sách “Người lính ra đi từ Làng Cát” được Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành; Hội Văn học nghệ thuật Phú Yên (cũ) và Ban Liên lạc Bến tàu Không số Vũng Rô tổ chức giới thiệu trang trọng nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/2025.
Kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2025) năm nay, thương Ngô Minh Thơ có dịp gặp lại các đồng đội để tặng sách, như một kỷ niệm cuối cuộc đời của người lính trải đời, trải đạn, trải tuổi xanh ở khắp chiến trường ác liệt, và cũng là phương thuốc tinh thần để ông tiếp tục chống chọi, vượt qua bệnh tật do vết thương hành hạ.
Một thời hoa lửa
Ngô Minh Thơ (1948) sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước (cha liệt sĩ, anh trai liệt sĩ) ở làng Cát - Hòa Hiệp, nay là phường Hòa Hiệp, tỉnh Đắk Lắk.
“Tháng 2/1964, khi có lệnh động viên thanh niên, du kích ở Hòa Hiệp vào bộ đội để thành lập Đại đội K60 ở căn cứ Miền Đông, tôi xung phong ngay. Tôi được bố trí làm liên lạc cho Ban Chỉ huy Đại đội K60. Anh Hồ Thanh Bình là Đại đội trưởng, Phạm Ân là Chính trị viên, anh Nguyễn Ngọc Cảnh là Đại đội phó. Ngoài nhiệm vụ liên lạc, tôi tham gia bảo vệ bến và giao hàng cho từng đơn vị để dân công vận chuyển về kho hậu cứ...”, ông Thơ nhớ lại những năm 1964 - 1965.
Cuộc chiến chống càn để bảo vệ tàu, bảo vệ bến, sau sự cố tàu 143 bị lộ vào ngày 16/2/1965 là trận đầu của ông Thơ và những thanh niên xã Hòa Hiệp mới nhập ngũ ở đơn vị K60.
Khi tàu 143 bị lộ, máy bay địch quần đảo bắn rocket thẳng xuống bãi Chùa nơi ngụy trang giấu tàu. Ngoài biển, tàu bắn pháo hạm. Buổi tối, địch bắn đèn sáng, sáng như ban ngày để quân ta không thể di chuyển. Sang ngày thứ hai, quân ta ẩn núp trong các gộp đá, chiến đấu với địch, dùng súng DKZ 75 và DK 57, cối bắn trả vào tàu địch ngăn không cho bộ binh đổ bộ. Anh em các đơn vị bảo vệ bến bị thương nhiều, do máy bay thả bom.
"Tôi thật sự thán phục về cuộc đời của Ngô Minh Thơ - một người lính Cụ Hồ đúng nghĩa trên các mặt trận. Ở tuổi 77, trên xe lăn và giường bệnh, anh nhớ và miệt mài ghi lại ký ức một đời lính để xuất bản tập hồi ký “Người lính ra đi từ làng Cát” – như nén hương lòng tri ân đồng đội, quê hương, và là di sản tinh thần để lại cho thế hệ sau" - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Đắc Thạnh, nguyên thuyền trưởng tàu Không số 41. |
“Vào ngày thứ ba của trận đánh bảo vệ bến, tôi bị thương ở chân phải, anh Nguyễn Ẩn cõng tôi chạy về trạm xá căn cứ Miền Đông để băng bó. Vết thương nặng, nên tôi được chuyển lên bệnh xá ở Hòa Thịnh, rồi bệnh viện huyện Y13. Thời gian ở đây, vừa điều trị, tôi vừa học được nghề y tá. Sau bình phục, từ năm 1967 được đưa về Tiểu đoàn 30 đặc công và lập công ngay nên được kết nạp vào Đảng ngày 17/10/1967”, ông Thơ kể.
Ở “địa ngục trần gian” Phú Quốc
Một trong những trận đánh đáng nhớ nhất trong đời ông là trận đánh sân bay Đông Tác năm 1972. Đây là trận đánh lớn, có sự tham gia của nhiều đơn vị. Tiểu đoàn 30 đặc công có nhiệm vụ mở đường phá rào cho bộ binh đổ bộ. Lúc này, ông Thơ là Trung đội trưởng Trung đội 3, có nhiệm vụ tiên phong cắt rào. Ông và các đồng đội đã cắt được 5 - 7 lớp rào, phát mật hiệu “50” và đèn trắng, tất cả hỏa lực của ta: B40, B41, DKZ đồng loạt khai hỏa. Trong trận này, ông Thơ không rút kịp đã bị mảnh pháo găm vào đùi trái và trên đầu. Máu lênh láng, được đồng đội cõng chạy một quãng thì ngất đi, tỉnh dậy thấy mình nằm trong bệnh viện của Mỹ - ngụy.
Địch tra khảo, trước sau ông Thơ chỉ khai: “Tui là dân công đi vác đạn”. Sau cấp cứu, địch dùng trực thăng vận chở ông ra bệnh viện ở Tuy Phước (Bình Định) trước khi bị chuyển ra trại giam Phú Quốc.
Ở trại giam Phú Quốc, Ngô Minh Thơ bị nhốt ở khu biệt lập C8. Đó là nơi giam những người “cộng sản gộc”. "Chúng đánh bất kể giờ giấc, tra khảo đủ các kiểu. Mình cứ bao nhiêu đó mình nói. Trong chuồng cọp - một cái hộc đủ một người nằm, xung quanh rào kẽm gai, mọi sinh hoạt đều trong “chuồng”. Người tù bị còng tay còng chân. Nó tra khảo đánh đập, bằng chày vồ, roi điện, không kể mình chết sống. Nó làm ác liệt để mình đầu hàng, chiêu hồi. Nhưng anh em khu C8 luôn vững vàng", ông Thơ hồi tưởng.
Ngày 12/3/1973, Ngô Minh Thơ được trao trả tại sông Thạch Hãn (Quảng Trị) trong đợt đầu tiên. Lội đến nửa sông, ông Thơ và các đồng chí cởi đồ ném xuống sông, lên bờ khoác vào bộ quân phục. Lúc đó, mọi người cảm thấy như từ cõi chết trở về, biết là mình được sống, như trong chiêm bao. Cuối năm 1973, ông Thơ trở lại Tiểu đoàn 30, tiếp tục chiến đấu.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ông Thơ được điều động làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 860) làm nhiệm vụ huấn luyện tân binh cho chiến trường K. Vết thương tái phát, ông được phục viên, xuất ngũ năm 1980, với quân hàm Trung úy.
Cuộc đời chiến đấu hơn 16 năm (1964 -1980) của Trung úy Ngô Minh Thơ có nhiều điều để tự hào với con cháu: Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba, hạng Nhì và hạng Nhất, Huân chương Chiến công (3 huân chương), Huân chương Quyết thắng hạng Nhì, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang… …
![]() |
Các đồng đội chúc mừng ông Ngô Minh Thơ ra mắt tập hồi ký. |
Trở về với đời thường, ông và vợ là Nguyễn Thị Hoa lăn lộn nhiều công việc để nuôi con: mở nhà hộ sinh, học nghề kim hoàn, mở tiệm vàng bạc, nuôi tôm… Cuối cùng, ông có duyên với nghề nuôi tôm sú. 25 năm lăn lộn với đồng tôm từ hạ lưu sông Bàn Thạch đến hạ lưu sông Đà Rằng, và cả vùng nuôi tôm xã Ninh Thọ, Vạn Thọ (Khánh Hòa), ông Thơ có diện tích vài mươi ha đìa mặt tiền.
Niềm vui cuối đời của ông Thơ là xuất bản được tập sách của cuộc đời mình, được gặp và chung vui cùng đồng đội. Ba người con của ông nay đã trưởng thành, hai con gái ở Đức và Thụy Sĩ, anh con trai thì đi về Singapore - Việt Nam làm kinh doanh…
Trần Quới
Ý kiến bạn đọc