Những vần thơ viết về Giỗ Tổ Hùng Vương
Suốt bao ngàn năm qua, năm nào Giỗ Tổ Hùng Vương cũng được tổ chức trang nghiêm, trọng thể ở khắp nơi trên đất Việt, nhất là tại Đền Hùng. Đặc biệt, từ năm 2007, ngày mùng 10 tháng 3 (âm lịch) trở thành ngày hội náo nức của toàn dân tộc. Từ xưa đến nay, trong lịch sử văn học Việt Nam, bao vần thơ đã ngợi ca về ngày quốc lễ này như một sự nhắc nhở để cháu con thành kính hướng về, dâng hương tưởng niệm “các Vua Hùng đã có công dựng nước”.
Đồng bào cả nước nô nức về dự Lễ hội Đền Hùng (Ảnh: T.L) |
Không có người Việt Nam nào lại không thuộc nằm lòng hai câu ca dao dưới đây:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Hay:
Tháng giêng giỗ thánh Sóc Sơn
Tháng ba Giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về
Đền Hùng là chứng tích lịch sử của nước Văn Lang với họ Hồng Bàng gồm 18 vị vua Hùng thay nhau trị vì.Trong Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể như sau:
Lạc Long về chốn Nam Thùy
Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên
Chủ trương chọn một con hiền
Sửa sang việc nước nối lên ngôi này
Hùng Vương đô ở Châu Phong
Ấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao Giang
Đặt tên là nước Văn Lang
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Theo sách sử ghi chép lại, năm 1941, vào lúc nhân dân ta bắt đầu nhen nhóm phong trào nổi dậy với ngọn lửa căm hờn, giữa hai gọng kiềm của đế quốc Pháp và Nhật, nhân ngày Giỗ Tổ, anh chị em sinh viên Hà Nội tổ chức một cuộc đi thăm miếu Quốc Tổ để nhắc nhở đồng bào cả nước nhớ về cội nguồn. Trong dịp này một sinh viên trường thuốc có năng khiếu âm nhạc, người Nam Bộ, khởi soạn bài hát có tựa đề "Đi hội Đền Hùng" gồm có ba đoạn. Sinh viên ấy sau này là nhạc sĩ nổi tiếng Lưu Hữu Phước. Đây là đoạn đầu: Chúng ta cùng nhau đi viếng thăm/ Nơi cố hương của giống Tiên Rồng/ Chúng ta cùng nhau đi viếng thăm/ Những vết xưa của núi sông/ In dấu chân của biết bao anh hùng/Cùng với nhau Nam, Bắc, Trung/ Chúng ta về thăm mộ Tổ ta/ Cho vang với nước non nhà. Và vào năm 1953, những người làm báo ở Hà Nội lấy ngày Giỗ Tổ Hùng Vương làm ngày Đại đoàn kết tất cả những người viết báo cả nước và để những người cầm bút hướng về ngày Giỗ Tổ. Trong bài diễn văn của Ban tổ chức làng báo năm đó viết: "Chúng tôi đã chọn ngày đó là đã cố tâm muốn được anh hồn tổ tiên của nòi giống Lạc Hồng ấp ủ lên công việc của báo chí, nâng đỡ phù hộ cho báo chí ngày một phát triển và trở thành dụng cụ tranh đấu thiết thực nhất của dân chúng trong quốc gia và của quốc gia trong thế giới. Chúng tôi chọn ngày đó là muốn chiêm ngưỡng tiền nhân mà nhớ đến tiền nhân, là nhớ rằng bổn phận mình là ở bên cạnh dân chúng và vun đắp vào công việc chung làm cho quốc gia Việt Nam xứng đáng với những trang sử oanh liệt của tiền nhân"
Hội lễ Vua Hùng tổ chức có đám rước voi làm bằng nan, ngựa bằng gỗ với ý nghĩa muôn loài quy phục Vua Hùng; đồng thời cũng tượng trưng cho việc "chú rể Sơn Tinh" mang quân đi đón "cô dâu Mỵ Nương" trong lễ thách cưới và đưa dâu. Đám rước phải đầy đủ cổ chay và mâm ngũ quả, với lễ vật là bánh dầy, bánh chưng, nhắc đến sự tích Lang Liêu, cũng là nhắc đến các vua Hùng có công dạy dân trồng lúa. Những thiếu nữ Mường như những cô tiên, trang phục đẹp, vừa chơi trò đu tiên bên ngoài đền Hạ, vừa hát: "Này lên! Này lên! Này lên!/ Lên non Cổ tích, lên đền Hùng Vương/ Đu tiên mới dựng năm nay/ Cô nào hay hát kỳ này thì lên/ Tháng ba nô nức hội đền/ Là ngày Giỗ Tổ mấy nghìn năm nay".
Người dự hội Giỗ Tổ Vua Hùng tới từ thập phương với niềm vui tràn ngập, rộn ràng với những hình thức sinh hoạt văn hóa dân tộc đầy sức sống:
Hội đền vui lắm ai ơi
Kẻ thời Giỗ Tổ, người thời đu tiên
Tổ tôm đánh ở bên trên
Có người bên dưới đôi bên vui vầy
Lại thêm phường rối leo dây
Múa đao, tung quả có hay chăng là
Gần đây, những em học sinh tiểu học đều biết đến bài thơ "Qua Thậm Thình" (1971) của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi trong sách giáo khoa. Theo nhà nghiên cứu thời đại Hùng Vương là Nguyễn Khắc Xương thì khi ông về xã Kim Đức và An Thái để sưu tầm, nghiên cứu về hát xoan, trong vùng có bãi Thậm Thình (tên gọi từ ngày xưa) cách Đền Hùng khoảng 2,5 km, được các cụ nghệ nhân cho biết: Cái tên Thậm Thình được đặt theo tiếng chày giã gạo, vùng đó là nơi ngày xưa quân lương giã gạo cho Vua Hùng.
Bài thơ gợi lên những ký ức về thời Vua Hùng tuyệt đẹp. Trong khuôn khổ bài viết, tôi chỉ xin chép ra đây một đoạn:
Đi qua xóm núi Thậm Thình
Buâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm
Vua Hùng một sáng đi săn
Trưa tròn bóng nắng nghỉ chân chốn này
Dân dâng một quả xôi đầy
Bánh chưng mấy cặp, bánh dầy mấy đôi
Đẹp lòng, vua phán bầy tôi
Tìm đất kén thợ, định nơi xây nhà
Trăm cô gái đẹp tiên sa
Múa chày đôi với chày ba rập rình
Đêm đêm tiếng thậm, tiếng thình
Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non
Vậy đó, thơ ca nói riêng và các loại hình nghệ thuật dân tộc ta nói chung bao đời nay đã viết rất nhiều về ngày Giỗ Tổ Hùng Vương như một tấm lòng tri ân với cội nguồn dân tộc. Đâu đó như nghe khói hương phảng phất gọi về thầm nhắc lời Bác Hồ căn dặn năm xưa với con cháu muôn đời sau: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Ý kiến bạn đọc