Lời khuyên vàng khi dùng thuốc bổ cho sĩ tử
Cứ đến mùa thi, không ít cha mẹ lại tìm đến với các loại thuốc bổ mà họ cho là có tác dụng tăng cường trí nhớ để mua về cho con em mình dùng. Song, trên thực tế việc lạm dụng thuốc bổ chưa hẳn đã mang lại những kết quả tốt đẹp mà đôi khi nó còn mang lại những tác dụng phụ không mong muốn.
Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại thuốc bổ đang được coi là có tác dụng trên hệ thần kinh. Phần nào các thuốc này giúp cho hệ thần kinh có thể đạt được sự minh mẫn và chúng được gọi là các thuốc thông minh. Sở dĩ như vậy vì người ta cho rằng chúng có tác dụng cải thiện trí nhớ, tăng khả năng nhận thức, củng cố trí thông minh, nhạy bén hóa khả năng tư duy. Những loại thuốc này được chia làm các nhóm sau:
- Các vitamin nhóm B (vitamin B, omega 3, DHA): có tác dụng làm gia tăng quá trình methyl hóa, làm tăng khả năng hoạt hóa các synap thần kinh, làm giảm nồng độ homocystein, một chất làm cản trở quá trình nhớ. Song đó chỉ là tác dụng trên những đối tượng bị rối loạn thần kinh nặng như viêm đa dây thần kinh, tê phù. Omega 3 là một axit béo có chủ yếu ở màng tế bào thần kinh do đó là một chất dinh dưỡng cần thiết cho não bộ phát triển, nhất là trẻ em.
- Các thuốc thuộc nhóm racetam (piracetam, aniracetam, nebracetam, fasoracetam, imuracetam…): có một số tác dụng chung là làm tăng nồng độ các chất trung gian thần kinh như acetylcholin, tăng hoạt hóa thần kinh, tăng chuyển hóa trong tế bào thần kinh nên có vẻ như nó làm cải thiện hoạt động trí tuệ. Thực tế những thuốc này có ý nghĩa với những người bị các rối loạn thần kinh do mạch máu.
- Các thuốc thuộc nhóm chất kích thích thần kinh (atomoxetine, reboxetine, synephrine, arecoline, nicotine, caphein, adrafinil, armodafinil, modafinil...): Những thuốc này có tác dụng làm tăng nồng độ các chất trung gian thần kinh, tăng khả năng tỉnh táo. Những thuốc này không trực tiếp tác động vào hoạt động tư duy mà tạo điều kiện cho hoạt động ấy diễn ra. Song, những loại thuốc thuộc nhóm này có nhiều tác dụng phụ nhất.
- Các thuốc được coi là cải thiện trí nhớ, nhất là ở những người bị bệnh sa sút trí tuệ, mất trí nhớ nghiêm trọng: Những thuốc này đều có chung một mục đích là làm tăng nồng độ acetylcholin, chất trung gian dẫn truyền ở não bộ. Đây là nhóm thuốc được chỉ định điều trị ở bệnh nhân Alzheimer.
- Các thuốc làm thay đổi lưu lượng máu não và làm thay đổi chuyển hóa của các tế bào não bộ (picamilon, gingko, vinpocetin, cinnarizin): Những thuốc này đặc biệt có tác dụng với những người bị chứng thoái hóa, xơ cứng mạch, cao tuổi, nhồi máu, chảy máu não. Vì chúng làm động mạch giãn ra đáng kể trong tình trạng đang bị hẹp do co thắt, bị chèn ép. Chúng cũng được coi là những thuốc bổ thần kinh hay được dùng trong mùa ôn thi.
Chính vì những loại thuốc đều có tác dụng chung là khả năng cải thiện chức năng thần kinh trung ương nên chúng thường được các bậc phụ huynh lựa chọn như thuốc bổ cho con em trong mùa thi. Tuy nhiên, theo các chuyên gia y tế, khi sử dụng cần lưu ý, không phải mọi thuốc đều có tác dụng với các sĩ tử. Một số có tác dụng trên người bệnh, một số có tác dụng trên trẻ em. Chẳng hạn như DHA, omega 3 cần cho sự hình thành và phát triển não bộ nên rất cần cho trẻ em. Ở người trưởng thành, não bộ không hình thành và phát triển thêm nữa. Các chất này lại không có ý nghĩa làm thay đổi tuổi thọ của các tế bào nên chúng ít có ý nghĩa với người trưởng thành. Bên cạnh đó, một số thuốc có tác dụng phụ nghiêm trọng vì nó tác động vào mạch máu, các thụ cảm thể thần kinh, tác động vào nồng độ các chất trung gian thần kinh như vinpocetin, galantamine, modafinil. Vì thế, việc dùng chúng cần phải tuân theo đúng chỉ định của bác sĩ mà không được tự ý sử dụng. Bởi, rất có thể chúng làm thay đổi hoạt động của hệ tim mạch, hệ cơ vận động, làm thay đổi hoạt động của ruột - tiêu hóa. Bất cứ khi nào thấy có biểu hiện khác thường cần phải ngưng sử dụng thuốc và hỏi ý kiến bác sĩ.
K.O (nguồn SK&ĐS)
Ý kiến bạn đọc