Multimedia Đọc Báo in

CHUYỆN VỀ "BINH ĐOÀN NGỰA SẮT" TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM GIÁP NGỌ 1954

14:04, 28/01/2014

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, việc cung cấp và tiếp tế cho mặt trận được coi là một trong những vấn đề khó khăn nhất, nào khoảng cách thì xa xôi, thời tiết thì khắc nghiệt, địa hình thì hiểm trở, lại thêm quân địch cả dưới đất lẫn trên trời ngày đêm quấy rối.

Chính tên tướng Pháp Nava đã từng cho rằng: “Việc tiếp tế đối với địch (Việt Minh) là điều khó khăn vì phương tiện vận chuyển tiếp tế có hạn. Nếu muốn tiến công Điện Biên Phủ thì đối phương buộc phải tiếp tế vận chuyển bằng sức người rất hạn chế vì đường sá quanh đó đã bị phá hủy hoặc không có” (Nava - Vì sao Điện Biên Phủ). Còn tướng Xalăng, nguyên Tổng Tư lệnh Đông Dương cũng có ý kiến rằng: “... Đối phương không thể sử dụng được một số lượng quan trọng lương thực và các vũ khí nặng vì vận chuyển khó khăn không sao khắc phục được...” v.v… Thế nhưng, quân và dân ta đã khắc sâu lời Bác dạy: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên”. Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước đã quyết tâm thực hiện thành công công tác vận tải, tiếp tế cho chiến trường Điện Biên Phủ. Có thể nói, với chiến dịch Điện Biên Phủ, công tác vận tải đã diễn ra như một mặt trận thực sự, với tính chiến đấu quyết liệt: Trên 6.200 xe ô tô được huy động, 2.600 thuyền bè các loại tham gia. Đặc biệt ra trận lần này có hơn 1 vạn con ngựa thồ, 21.000 chú “ngựa sắt” (mệnh danh của xe đạp thồ) và hơn 26 vạn dân công.

Riêng về những chú “ngựa sắt”, để nâng thêm số trọng lượng được chở, ngoài một đoạn tre nhỏ và chắc dài khoảng 1m (gọi là “tay ngai” để điều khiển vào ghi đông); một đoạn tre cao hơn yên khoảng 50cm để cầm được buộc vào trục yên xe (có tác dụng vừa giữ thăng bằng vừa đẩy xe đi), những người dân công còn tăng độ cứng của khung xe như hàn thêm sắt, buộc thêm gỗ. Và vải lự, quần áo cũ, săm cũ… cũng được dùng để “gia cố”, tăng độ bền của săm, lốp. Thời gian đầu, mỗi chú “ngựa sắt” chỉ chở được 80-100 kg. Về sau, trọng tải được tăng dần lên nhờ các sáng kiến cải tiến gá, buộc nên có thể chở được gần 300 kg, hoặc 2 thùng phuy nhiên liệu loại 150 lít, hoặc 15 - 20 can loại 20 lít. Hai chú “ngựa sắt” “gá” lại có thể chở được 2 thương binh nặng (nằm) và 4 thương binh nhẹ (ngồi). Các chú “ngựa sắt” có đi-na-mô phát điện còn được sử dụng để chiếu sáng cho các thầy thuốc phẫu thuật trong đêm. Lợi thế của loại phương tiện này là không cần nhiên liệu, dễ sửa chữa, ngụy trang và có thể đi lẻ hoặc thành đoàn trong mọi điều kiện thời tiết. So với vận tải bằng gánh gồng, mang vác, “ngựa sắt” cũng chiếm ưu thế hơn hẳn (năng suất gấp 7-8 lần so với gồng gánh. Thậm chí có những người đạt “kỷ lục” như anh Nguyễn Văn Ngọc (đoàn Thanh Hóa) với 320 kg/chuyến, hay anh Ma Văn Thắng (đoàn Phú Thọ) có chuyến chở 325 kg hàng, tức là gấp 13 lần một người gồng gánh. Ở chiến dịch Điện Biên Phủ, “Binh chủng ngựa sắt” được biên chế thành từng đoàn theo địa phương. Mỗi đoàn có nhiều trung đội, đại đội (trung bình từ 30-40 xe). Mỗi trung đội, đại đội lại chia thành các nhóm khoảng 5-6 xe để hỗ trợ nhau khi qua đèo, qua dốc. Trung đội nào cũng có một xe chuyên chở đồ nghề, phụ tùng thay thế, bếp than để sửa chữa và vá chín. Đêm đi, ngày nghỉ. Chiều chiều xe đã được bảo dưỡng, ra trạm nhận hàng rồi “binh đoàn ngựa sắt” lại lên đường. Dù rất gian khổ, nhưng đoàn quân của “binh đoàn ngựa sắt” này luôn lạc quan, yêu đời. Mỗi khi “ngựa sắt” lên đèo, lên dốc là trong đoàn lại cất tiếng hò : “Ai sinh ra chiếc xe thồ/ Trập trùng đèo dốc lần mò suốt đêm … hò dô này! Hò dô ta …này !”. Đặc biệt, cũng có lúc ngẫu nhiên, nhiều đoàn “ngựa sắt” gặp nhau. Thế là nổi lên với bao tiếng hò, tiếng hát với đủ các thổ âm từ giọng chắc khỏe của xứ biển Thanh-Nghệ đến giọng tình tứ, ngọt ngào của anh chị em miền quan họ, hay chất giọng thủ thà thủ thỉ của những con người quê hương “Tiễn dặn người yêu”.

Được mệnh danh là “binh đoàn ngựa sắt”,  những chiếc xe đạp thồ đã góp phần quan trọng  vào Chiến thắng Điện Biên Phủ  - Ảnh: TL
Được mệnh danh là “binh đoàn ngựa sắt”, những chiếc xe đạp thồ đã góp phần quan trọng vào Chiến thắng Điện Biên Phủ - Ảnh: TL

Một câu chuyện kỳ thú về tình quân dân trong đội ngũ của “binh đoàn ngựa sắt” này là câu chuyện anh dân công quê ở Thanh Hóa được bắt tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở đầu cầu Mường Thanh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kể lại trong hồi ức của mình rằng: “Một anh dân công còn trẻ không biết nhìn thấy tôi từ lúc nào, đón đợi tôi bên kia cầu. Anh nói với tôi bằng một giọng mạnh dạn : “Đề nghị anh cho em bắt tay anh một cái”. Tôi vui vẻ bắt tay anh và biết anh quê ở Thanh Hóa”. 

Cuốn Sông núi Điện Biên của Trần Lê Văn có kể câu chuyện cảm động như sau : Anh Đào Phương- một thị dân ở Thanh Hóa đã ngày đêm vận động khu phố anh tham gia vào đội quân “binh đoàn ngựa sắt”. Sau một thời gian ngắn, anh tập hợp được gần 50 người lập thành một đại đội do anh làm đại đội trưởng. Anh cho biết, những chiến sĩ trong đại đội “ngựa sắt” của anh gồm cả nam lẫn nữ. Tất cả đều nhanh nhẹn, tháo vát. Họ là thị dân nên tác phong ăn mặc nói năng rất phố phường, nghĩa là thích diện, thích ăn ngon, thích nói tếu, nhưng không vì thế mà họ thua anh, kém em về nhiệt tình và thành tích. Họ biết yêu thương giúp đỡ nhau, không tơ hào một hạt gạo của bộ đội. Chiến dịch Điện Biên cũng là một trường học đối với họ. Họ tự hào về kỷ lục 320kg/ chuyến của đồng đội mình là anh Nguyễn Văn Ngọc. Kháng chiến thành công, Đào Phương đã viết một cuốn tự truyện đặc sắc: “Thồ lên Điện Biên”. Cuốn sách kể về “binh đoàn ngựa sắt” thồ gạo, cá khô, nước mắm cô đặc...; “hàng” đóng trong bì cói lại bọc thêm ni lông ở ngoài. Trời mưa, người ướt, hàng vẫn khô. Đến đèo Pha Đin là nơi trung chuyển, xe trút hàng ở kho và nhận các thứ khác để thồ lên tận hỏa tuyến, có khi thồ cả súng đạn. Công việc của xe thồ từ Pha Đin trở lên rất cơ động. Dọc đường, đội ngũ xe thồ cũng phải ứng phó với rất nhiều tình huống: xe hỏng, phải có sẵn phụ tùng để thay tại chỗ; khi có máy bay địch, trong chớp mắt đoàn xe thồ đang rồng rắn đã tản vào rừng, nhanh hơn cả ô tô. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp hy sinh vì bị bom đạn địch hay bị cơn sốt rét ác tính, có trường hợp vì lỡ chân mà cả người và xe lăn xuống vực…

Để kết thúc bài viết này, xin được nhắc lại những lời nhận định sắc sảo của ký giả G. Roa, khi ông cho rằng: “Đã có hàng trăm tấn bom được ném xuống các tuyến giao thông và những con đường tiếp vận của Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng chẳng bao giờ cắt đứt nổi những con đường ấy… Tướng Nava bị thua chính là những chiếc xe đạp thồ với những kiện hàng từ 200 đến 320 kg, được điều khiển bởi những con người ăn không thật no và ngủ thì nằm ngay trên những mảnh ni-lông trải trên đất” (Trận Điện Biên Phủ). Vâng, đây cũng chính là một trong những chuyện chưa từng có trong lịch sử chiến tranh. Điều kỳ diệu là chuyện chưa từng có này lại có ở Việt Nam - một đất nước mà “đến ong dại cũng thành chiến sĩ/ đến hoa trái cũng thành vũ khí/ và những em thơ cũng hóa những anh hùng”..

Nguyễn Thị Thọ


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.