Văn hóa các dân tộc thiểu số dưới góc nhìn báo chí
Văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là đề tài hấp dẫn đối với báo chí. Chủ đề này cũng rất thu hút bạn đọc, vì vậy giới truyền thông nói chung tìm cách tiếp cận, khai thác và phản ánh thường xuyên, rộng rãi.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn báo chí - theo tìm hiểu, theo dõi của cá nhân tôi thì những thông tin mà nhà báo mang lại cho bạn đọc thường được nhìn từ bên ngoài, với tư cách là người quan sát, chứ thật sự chưa thấu hiểu về đối tượng được phản ánh. Thậm chí những vấn đề đặt ra của các dân tộc thiểu số được lý giải bằng sự trải nghiệm cá nhân nhà báo mà thôi. Từ đó, không ít người phản đối và cho rằng cách thông tin như vậy là tai hại…
Với tư cách là phóng viên được phân công theo dõi mảng văn hóa trong nhiều năm qua, tôi xin được trao đổi vài vấn đề về văn hóa các dân tộc thiểu số dưới góc độ thông tin của báo chí hiện nay.
Thu hút mối quan tâm của lớp trẻ trong việc bảo tồn vốn văn hóa dân tộc thiểu số là vấn đề cần giới truyền thông chú trọng hơn. |
Trước hết, có thể dễ dàng nhận thấy đặc điểm nổi bật của báo chí khi viết về các tộc người thiểu số phần lớn đi vào phản ánh các khía cạnh tiêu cực nhiều hơn là tích cực, thậm chí định kiến (là nghèo đói, lạc hậu, chây lười, ỷ lại…). Thông điệp của truyền thông đến với người đọc có thể nói khá đa dạng, song tóm lại rơi vào ba khuynh hướng chủ đạo tạm gọi là “huyền bí hóa”, “lãng mạn hóa” và “bi kịch hóa” về văn hóa của các dân tộc thiểu số. Bao giờ cũng vậy, mối quan tâm của nhà báo đến những tập tục khác lạ trong đời sống của các cộng đồng dân tộc - và mô tả nó dưới màu sắc huyền bí là đề tài có sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc hơn cả… Những khác lạ đó là gì? Là các tập tục liên quan đến hôn nhân, gia đình và đời sống tình cảm của người dân tộc thiểu số như tục cướp vợ (dân tộc H’mông), nối dây, ngủ thăm (các tộc người Tây Nguyên), đi sim (dân tộc Bru, Vân Kiều), chọc sàn (dân tộc Thái)… đến chợ tình Sa Pa, Khâu Vai ở vùng núi phía Bắc. Nếu không thấu hiểu hết văn hóa của các tộc người ấy và cứ đào sâu khai thác theo hướng “huyền bí hóa”, hay “lạ hóa” như vậy thường tạo ra hình ảnh méo mó về văn hoá các tộc người thiểu số trong mắt bạn đọc và phản ứng của chính những tộc người được báo chí phản ánh. Tôi còn nhớ, trên Tạp chí Dân tộc và Phát triển (xuất bản năm 2011), ông Cư Hòa Vần, lúc đó là Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ từng phản bác: “Thực sự không có chợ tình. Những chợ tình Sa Pa hay Khâu Vai… là nơi diễn ra giao lưu văn hóa, thông tin, tình cảm của bà con người dân tộc thiểu số. Nhưng báo chí lại cường điệu, thêu dệt thêm rằng - đến đó gặp nhau, kéo nhau đi và muốn làm gì thì làm… Điều đó hoàn toàn bịa đặt”!
Cùng với xu hướng phủ lên văn hoá dân tộc người thiểu số lớp sương mờ huyền bí, cuốn hút sự tò mò của độc giả, thì khuynh hướng “lãng mạn hóa” cũng có sức nặng đáng kể trên mặt báo. Ở khuynh hướng này, báo chí thường ngợi ca phong cảnh hùng vĩ và mơ mộng; sự độc đáo của sản vật; thú vui thưởng thức và thư giãn với vẻ đẹp hoang sơ cần được khám phá từ những vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Thẩm âm, chỉnh chiêng, nghệ thuật diễn xướng là một phần của văn hóa Tây Nguyên. |
Còn khuynh hướng “bi kịch hóa” thể hiện rõ nhất là vấn đề lạc hậu, nghèo đói triền miên của người dân tộc thiểu số. Báo chí thường nhấn mạnh khía cạnh khốn khó trong đời sống của họ, nhằm kêu gọi sự can thiệp, giúp đỡ từ Nhà nước, cá nhân và các tổ chức hảo tâm. Qua đó ca ngợi thái quá vai trò giúp đỡ từ bên ngoài cộng đồng, trong khi lờ đi tiềm lực nội tại của họ. Hơn thế, người phản ánh còn nhìn đồng bào dân tộc thiểu số như những người ngây thơ, cả tin và dễ dãi… để từ đó dễ bị lợi dụng, xúi dục và kích động.
Bằng cách tập trung khai thác, phản ánh những yêu tố đó, giới truyền thông đã mặc nhiên thừa nhận nguyên nhân sâu xa, cũng như trực tiếp dẫn đến tình trạng đói nghèo, lạc hậu và không lối thoát… là vấn đề nội tại của các dân tộc thiểu số (!?) Còn những yếu tố bên ngoài như sự bất cập của chính sách; sự can thiệp thô bạo từ các dự án kinh tế - xã hội; quá trình tổ chức thực hiện chủ trương phát triển ở miền núi nói chung và vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng; sự tàn phá môi trường sống; khai thác nguồn tài nguyên cạn kiệt và tình trạng buông lõng quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng… thường ít khi được đề cập tới. Những vấn đề cốt yếu này đã được tôi cũng như nhiều đồng nghiệp trình bày, chia sẻ tại Hội thảo “Báo chí với công tác tuyên truyền bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” được tổ chức vào trung tuần tháng 5-2016. Và tại đây, nhà nghiên cứu Văn hóa dân gian Linh Nga Niê Kdăm đã bày tỏ: “Cách nhìn nhận vấn đề như vậy cho thấy nhà báo chưa cố gắng thấu hiểu văn hóa, lối sống của các tộc người thiểu số. Ngược lại đang “dán nhãn” lên lối sống của họ. Đáng tiếc là đối tượng bị “dán nhãn” vốn có tiếng nói yếu ớt, ít cơ hội để phản hồi lại những thông tin sai lệch về mình”.
Cũng tại hội thảo trên, vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được các nhà báo quan tâm nhiều nhất. Sự quan tâm của báo chí đến khía cạnh này đã làm bật nẩy lên nhiều điều cần phải được “mổ xẻ” và nhìn nhận lại trong công tác truyền thông. Hầu hết các nhà báo khi phản ánh vấn đề này cho thấy, người trong cuộc tham gia hăng hái nhất trong việc bảo tồn, phát huy vốn văn hóa cổ truyền thường là già làng, người có uy tín, chức sắc trong cộng đồng. Trong rất nhiều trường hợp, dường như già làng là người duy nhất trong cộng đồng còn lưu giữ được ký ức về văn hóa của cộng đồng dân tộc mình và luôn có ước vọng bảo tồn. Còn giới trẻ và người bình thường ít xuất hiện như những chủ thể tích cực trong quá trình này. Với cách nhìn đó, tôi cho rằng, nếu xem văn hóa như sản phẩm của quá trình sáng tạo, thực hành và duy trì bởi cộng đồng, thì quá trình bảo tồn, phát huy đó sẽ là một thực tế đáng lo ngại! Tuy nhiên, báo chí chưa hề lên tiếng về thực tế đáng lo ngại ấy. Thứ đến, việc truyền thông không ngần ngại phê phán các tập tục bị coi là lạc hậu, tập trung chủ yếu vào các vấn đề hôn nhân, sinh sản, chăm sóc sức khỏe, tệ nạn xã hội… với nhiều chi tiết nhấn mạnh sự cổ hủ đến man rợ do thiếu hiểu biết pháp luật (hay có biết nhưng vẫn thực hành) khiến người đọc nhìn nhận rằng, các tộc người thiểu số đã “bảo thủ” đến khắc nghiệt để duy trì sự lạc hậu của mình (!?). Nội dung các thông điệp mà giới truyền thông phát đi kiểu như thế đã cho thấy một mâu thuẫn khó lòng giải quyết trong đời sống văn hoá của các tộc người thiểu số dưới áp lực phát triển đặt ra - đó là cùng với vốn văn hóa và lối sống cổ truyền như bao cộng đồng khác, người dân tộc thiểu số phải bảo tồn những gì (được người ngoài cộng đồng) cho là lạc hậu. Trong toàn bộ quá trình mâu thuẫn đó, người dân tộc thiểu số xuất hiện trong tư thế bị động, bị dẫn dắt bởi ý chí áp đặt từ bên ngoài nhiều hơn là nhu cầu và ước vọng từ bên trong của họ. Mặc dầu ai cũng thừa nhận rằng văn hóa của mỗi tộc người đều có bản sắc, độc đáo khác nhau và quan trọng nhất là phải trân trọng sự khác biệt của nhau.
Đã đến lúc cần có chiến lược đổi mới phương thức truyền thông về đời sống văn hóa của các dân tộc thiểu số hiện nay. Đó là tăng cường tính khách quan, minh bạch của thông tin dựa trên quan điểm “thấu hiểu” hơn là “phán xét” khi tiếp cận và phản ánh về các dân tộc thiểu số. Nếu được, các cơ quan truyền thông nên thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo nhằm nâng cao kiến thức và lý luận về văn hóa các dân tộc thiểu số cho người làm báo. Theo đó xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin về các dân tộc nói chung, cũng như đường lối, chính sách và luật pháp liên quan… nhằm mang lại hiệu quả tuyên truyền tốt hơn về đời sống của người dân tộc thiểu số trên mọi vùng miền của cả nước.
Đình Đối
Ý kiến bạn đọc