Multimedia Đọc Báo in

Ði tìm nguồn nước ngọt ở Trường Sa

14:21, 05/10/2024

Tuy đã xuất ngũ trở về với cuộc sống đời thường nhưng câu chuyện đào giếng khơi dòng nước ngọt ở đảo Trường Sa vẫn được Đại tá Nguyễn Viết Nhất nhớ lại như một kỷ niệm khó quên về những ngày tháng gian khổ mà đẹp đẽ.

Vào cuối những năm 1980 của thế kỷ 20, trước tình thế ấy, để sinh tồn và xây đảo, chỉ bằng một cách là tiết kiệm tối đa cho đến khi có nguồn nước viện trợ từ đất liền. Kế hoạch tiết kiệm là mỗi người 1 lít nước một ngày cho cả đánh răng rửa mặt. “Nói là 1 lít, nhưng chúng tôi múc đầy cái cà-mèn của Liên Xô cũng được hơn 1 lít. Chừng ấy nước, lúc xây đảo, tôi chỉ tu 2 hơi là hết, vậy mà phải uống dè”, ông Nhất chia sẻ.

Năm 1988, ông Nhất khi ấy là Trung úy, Phó Đại đội trưởng về chính trị Đại đội 1, Tiểu đoàn 881, Trung đoàn 131, Công binh Hải quân tham gia xây dựng đảo Trường Sa. Ông kể: “Đảo Trường Sa Lớn ban ngày nhiệt độ nóng đến 380C, cộng với gió Tây Nam thổi mạnh, hơi nước mặn từ biển bốc lên, càng làm cho khí hậu thêm khắc nghiệt. Thời điểm đó, không có đảo nào có nước ngọt ngoài Trường Sa Lớn và Song Tử Tây.

Hai đảo này có bể chứa nước của ngụy để lại, mỗi bể chừng 6 khối, nhưng cũng không dùng được vì nhiễm thuốc súng, phân và lông chim. Những người lính công binh Hải quân vừa vật lộn với nắng gió, vừa khẩn cấp xây đảo. Nước ngọt được chở từ đất liền ra được bộ đội tiết kiệm rất chi li và chủ yếu dùng cho xây dựng đảo, còn anh em chúng tôi tuần tắm một lần, đánh răng rửa mặt mỗi người 1 lít/ngày. Khát cháy họng, nhưng không phải lúc nào cũng uống thỏa thích. Cả đại đội chỉ chừng 30 lít cho cả ngày. Số lượng ấy chỉ đủ cho 5 người buổi sáng”. Không thể bó tay chờ đợi trời mưa, không thể để bộ đội nhịn tắm, nhưng làm thế nào để có nước ngọt cho bộ đội sinh hoạt, có thể đào giếng khơi từ lòng đảo được không? Kế hoạch đào giếng tại đảo được đặt ra.

Đảo Nam Yết nhìn từ trực thăng EC-225.

Sau khi kế hoạch đào giếng được cấp trên chấp thuận, những người lính công binh Hải quân ban ngày trằn mình trong nắng lửa xây nhà, đào hầm hào công sự, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, tối tranh thủ đào giếng khơi dòng. Không ai bảo ai, các chiến sĩ tìm dòng nước ngọt như tìm sự sống cho mình mà không hề quản ngại vất vả, quên đi mệt nhọc.

Ở đảo Trường Sa Lớn, đá rất cứng, kết thành mảng lớn. Các chiến sĩ phải dùng búa chim bổ xuống trong điều kiện thiếu thốn phương tiện bảo hộ, ngay cả găng tay cũng không đủ. Sau hơn 2 ngày “tổng lực”, dòng nước ngọt đầu tiên được khơi nguồn. Cán bộ, chiến sĩ công binh Hải quân Trung đoàn 131 không thể nào quên cái buổi sáng đầu tháng 2/1988 ấy. Hàng trăm chiến sĩ hò reo phấn khởi khi nhìn thấy trong lòng giếng có nước, cách mặt đảo 3 m. Họ hô lớn: “có nước ngọt rồi, có nước ngọt rồi, hoan hô, hoan hô”. Mấy chiến sĩ trẻ nhanh chân chạy về nhà lấy xô nhôm buộc dây thừng thả xuống giếng múc nước. Nhưng mọi người nhanh chóng thất vọng, đó là nước lợ, chát, không thể nào uống được.

“Không uống được thì xây đảo”, nghĩ vậy, ngay ngày hôm sau các chiến sĩ công binh múc nước giếng trộn hồ. Song, do nước lợ nên hồ trộn không nhuyễn. Khi xây thử nghiệm, tường vẫn đứng vững nhưng sáng hôm sau thì ngả màu trắng và bong từng lớp hồ do muối mặn, các thanh sắt có hiện tượng gỉ sét. Không thể dùng nước giếng để xây các công trình, thế là bộ đội dùng nước giếng để… tắm giặt.

Đại tá Nhất chia sẻ: “Ngày ấy có nước lợ giặt giũ là quá tốt rồi. Chứ một tuần tắm một lần, còn đánh răng rửa mặt “theo kế hoạch” thì chịu sao nổi. Thế là, chiều chiều xong công việc các chiến sĩ lội xuống biển tắm, người nọ kỳ lưng cho người kia, tắm xong anh em lên dội lại nước lợ từ giếng. Do tắm nước biển lâu ngày, da người nào cũng xù xì như lớp sừng bám, tất cả cán bộ, chiến sĩ người nào cũng đen cháy, khi cười chỉ nhìn thấy răng và mắt”.

Quân, dân đảo Đá Tây nhặt rác giữ gìn môi trường đảo sạch đẹp.

Khó khăn là vậy nhưng với tình yêu Tổ quốc đầy ắp trong tim, các cán bộ chiến sĩ công binh Hải quân của Trung đoàn 131 nỗ lực khắc phục, chạy đua với thời gian để hoàn thành xây dựng các công trình trên đảo.

Sau ngót nửa thế kỷ giải phóng và xây dựng, quần đảo Trường Sa hôm nay đã khoác lên mình màu áo mới. Những “giếng nước thần” ở các đảo nổi ngày xưa giờ vẫn được bộ đội sử dụng tắm, giặt mỗi ngày nhưng đã được lọc bằng máy. Nước ăn, uống chủ yếu lấy từ nước mưa và chở ra từ đất liền. Các đảo đều có hầm chứa nước ngọt dự trữ trong 6 tháng mùa khô, đủ phục vụ sinh hoạt, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu phòng thủ bảo vệ đảo.

Mai Thắng


Ý kiến bạn đọc


(Video) Nâng cao vai trò, tiếng nói của phụ nữ dân tộc thiểu số huyện Buôn Đôn
Sau 3 năm triển khai Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”, giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: 2021 - 2025 đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho phụ nữ, trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Buôn Đôn.