Một số điểm mới của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII)
Một số điểm mới của Nghị quyết số 11-NQ/TW về “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
b. Về nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Nghị quyết số 21-NQ/TW (khóa X) đề xuất 5 nhóm chủ trương, giải pháp với 27 giải pháp cụ thể. Nghị quyết số 11-NQ/TW (khóa XII) đề xuất 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn với 44 giải pháp cụ thể; 5 nhiệm vụ cần tập trung chỉ đạo thực hiện:
- 6 nhóm giải pháp của Nghị quyết số 11-NQ/TW (khóa XII), đó là: 1) Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. 3) Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. 4) Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. 5) Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. 6) Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trong 44 giải pháp cụ thể, có một số giải pháp mới, nổi bật, như:
+ Có giải pháp về hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; có giải pháp về hoàn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế (những giải pháp này không có trong Nghị quyết số 21-NQ/TW).
+ Về hoàn thiện thể chế sở hữu, Nghị quyết số 11-NQ/TW đã chỉ đạo tập trung hoàn thiện pháp luật về đổi mới quản lý, nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên và các loại tài sản công, nhất là tài sản và vốn đầu tư của nhà nước tại doanh nghiệp. Tạo thuận lợi cho việc chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn và nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn, công nghệ cao, gắn với bảo đảm việc làm và thu nhập bền vững của nông dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn.
+ Về hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, bên cạnh tiếp tục nhấn mạnh hoàn thiện các thể chế thúc đẩy khởi nghiệp, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, Nghị quyết số 11-NQ/TW còn yêu cầu xây dựng thể chế tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
+ Về thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ, Nghị quyết số 11-NQ/TW đề xuất các giải pháp cụ thể phát triển và hoàn thiện thị trường các yếu tố sản xuất, chú trọng hoàn thiện pháp luật hỗ trợ và thúc đẩy cơ cấu lại thị trường tài chính. Hoàn thiện pháp luật về thuế tài sản, nhất là về đất đai, bất động sản. Bảo đảm minh bạch thông tin về thị trường quyền sử dụng đất. Xác định giá trị quyền sử dụng đất theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, đấu thầu các dự án có sử dụng đất, thoả thuận mua bán trên thị trường; áp dụng phổ biến việc xác định giá trị quyền sử dụng đất thông qua các tổ chức thẩm định giá độc lập, chuyên nghiệp. Rà soát, điều chỉnh khung giá quyền sử dụng đất phù hợp với thị trường ở từng địa phương. Tăng cường áp dụng phương thức cho thuê đất.
+ Về nâng cao năng lực lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết số 11-NQ/TW đã nhấn mạnh phải “Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng. Tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng về kinh tế - xã hội. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh đẩy lùi tham nhũng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết; kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề lớn, quan trọng, phức tạp về kinh tế - xã hội của đất nước”.
+ Về nâng cao năng lực, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế của Nhà nước, Nghị quyết số 11-NQ/TW đã chỉ rõ: “Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế; thực hiện đúng đắn và đầy đủ chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Điều hành nền kinh tế không chỉ bảo đảm mục tiêu ngắn hạn mà còn hướng tới thực hiện các mục tiêu trung và dài hạn. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo, nhất là dự báo chiến lược. Đổi mới căn bản và toàn diện công tác xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư công và tài chính công thực sự theo cơ chế thị trường, khắc phục tình trạng "xin - cho", chủ quan, duy ý chí. Đổi mới công tác thống kê phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và thực thi pháp luật”.
+ Về phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, Nghị quyết số 11-NQ/TW đã chỉ rõ: “Thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, quyền và nghĩa vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp. Bảo đảm mọi người đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển”.
- So với Nghị quyết số 21-NQ/TW (khóa X), xuất phát từ quan điểm coi xây dựng và hoàn thiện thế chế là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, Nghị quyết số 11-NQ/TW (khóa XII) đã đề xuất 5 nhiệm vụ quan trọng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Đây có thể coi là những giải pháp đột phá của Nghị quyết TW5 khóa XII hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Đó là: 1) Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh. 2) Hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; có chính sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Xây dựng thể chế làm căn cứ xử lý dứt điểm, hiệu quả các tồn tại, yếu kém đã tích tụ trong nền kinh tế nhiều năm qua, đặc biệt là việc xử lý các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu tư công không hiệu quả, thua lỗ kéo dài; cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém gắn với xử lý nợ xấu. 3) Hoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. 4) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực, hiệu quả thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước. 5) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống chính trị.
Ban Tuyên giáo TW – Ban Kinh tế TW
Ý kiến bạn đọc