Vụ lúa hè thu: Lưu ý phòng ngừa một số sâu bệnh hại chính
Vụ hè thu năm nay, mặc dù đầu vụ có thuận lợi về nguồn nước song do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết diễn biến phức tạp, mưa nắng đan xen nhau tạo môi trường “tiểu khí hậu” thích hợp cho sinh vật gây hại dễ phát sinh lây lan.
Với cây lúa, từng giai đoạn sinh trưởng có các đối tượng sâu, bệnh hại khác nhau phát sinh gây hại. Ở thời kỳ mạ và đẻ nhánh thường xuất hiện bọ trĩ, sâu cuốn lá nhỏ trên lúa. Thời kỳ này, lá lúa non, mềm mỏng nên là thức ăn hấp dẫn cho bọ trĩ cứa hút dinh dưỡng và sâu cuốn lá nhỏ ăn phần nhu mô của lá, làm hạn chế quá trình quang hợp để tích lũy dinh dưỡng của cây lúa.
Đến thời kỳ lúa đẻ nhánh, chuẩn bị làm đòng, phiến lá lúa phát triển cứng hơn, mật độ bọ trĩ giảm dần, tuy nhiên trên ruộng lúa lúc này lại xuất hiện thêm sâu cuốn lá lớn, sâu keo, sâu năn, rầy nâu, sâu đục thân…Trong đó, sâu năn (muỗi hành) là đối tượng gây hại khó phát hiện nhất nếu không thăm đồng thường xuyên và vạch từng bụi lúa để truy tìm triệu chứng “cọng hành” hiện diện ở giữa bụi lúa. Sâu năn có bốn giai đoạn (pha) phát triển hình thành vòng đời (trưởng thành, trứng, ấu trùng và nhộng) đều có hình thái rất nhỏ, lẫn vào trong những bụi lúa; nếu không phát hiện kịp thời, mật độ sâu năn gia tăng đồng nghĩa với “dịch sâu năn” xảy ra và năng suất lúa sẽ giảm trầm trọng.
Cánh đồng lúa vụ hè thu năm 2020 của xã Hòa Xuân (TP. Buôn Ma Thuột). |
Giai đoạn ruộng lúa làm đòng đến trổ thì ngoài sâu năn, đối tượng sâu đục thân cũng đáng lo ngại. Sâu đục thân hai chấm có 4 pha (bướm, trứng, sâu non, nhộng) nhưng trứng thường đẻ thành ổ mặt sau lá lúa, mỗi ổ có khoảng 200 trứng. Sau khi trứng nở, sâu non đục qua lá bao đòng, chui vào giữa rồi đục điểm sinh trưởng, cắn đứt các mạch dẫn dinh dưỡng, làm cho bông lép trắng. Vì số lượng sâu non trên mỗi ổ trứng rất nhiều nên khi lúa bị hại dễ bị cả chòm lúa, rồi lan rộng rất nhanh thành từng khoảnh, nếu không kịp phòng trừ thì cả ruộng hoặc từng khu vực lúa sẽ bị thiệt hại. Những diện tích lúa bị sâu đục thân, bông lúa sẽ lép, sản lượng thu hoạch không đáng kể.
Ngoài ra, bệnh hại trên lúa cũng là những đối tượng dịch hại đáng lo ngại. Các bệnh thường gặp trên lúa vụ hè thu là đạo ôn, đốm sọc vi khuẩn, vàng lùn, lùn xoắn lá, khô vằn… Trong đó, đáng lo ngại nhất là bệnh đạo ôn lá, đốt thân, cổ bông và hạt. Bệnh thường phát sinh và phát triển lây lan mạnh ở thời kỳ lúa đẻ nhánh rộ đến làm đòng, trổ. Bệnh đạo ôn do nấm Pyricularin gây ra, loại nấm này tồn tại dưới dạng bào tử trên tàn dư cây trồng từ vụ trước, trên lúa chét, cỏ dại… Khi dịch bệnh đạo ôn xảy ra trên diện rộng thì sẽ thiệt hại lớn đến năng suất và sản lượng lúa, đặc biệt ảnh hưởng đến kinh tế đối với những địa phương có diện tích lúa tập trung lớn.
Để quản lý tốt nhất dịch hại trên lúa vụ hè thu, nông dân phải thường xuyên tham gia các lớp tập huấn về quy trình sản xuất lúa của các cơ quan chuyên môn tại địa phương. Cần tổng hợp các biện pháp tác động trong cả quá trình sản xuất lúa từ khi làm đất đến thu hoạch mới đạt hiệu quả kinh tế cao. Theo đó, nên sử dụng các giống lúa cao sản kháng sâu, bệnh hại, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng sản xuất. Kỹ thuật canh tác cũng hết sức quan trọng, từ khâu làm đất cày vùi các tàn dư (ký chủ của sinh vật gây hại) của vụ đông xuân vừa qua, trước khi gieo sạ vụ hè thu từ 20 - 30 ngày. Căn cứ vào thời vụ gieo trồng và thời gian sinh trưởng của từng giống lúa để xuống giống đúng thời hạn, né tránh các đợt dịch hại có thể phát sinh vào các giai đoạn xung yếu của cây lúa (như giai đoạn làm đòng, thụ phấn, trổ…). Bón đủ và cân đối các chất dinh dưỡng (đạm, lân, kali các trung, vi lượng) để cây lúa hấp thu tốt các chất cần thiết theo nhu cầu sinh lý của từng giai đoạn. Điều tiết nước hợp lý, kết hợp với làm cỏ, sục bùn cho rễ lúa hô hấp mạnh, hấp thu dinh dưỡng nuôi cây.
Đặc biệt, quan tâm đến biện pháp sinh học cụ thể, bảo vệ lực lượng thiên địch có sẵn trên ruộng bằng cách không phun thuốc hóa học từ 0 - 40 ngày sau sạ (hoặc sử dụng thuốc sinh học nếu cần thiết) để các loại thiên địch phát triển mạnh (bọ rùa đỏ, nhện Lycosa, bọ xít gai ăn thịt, các loại ong ký sinh, nấm ký sinh….) nhằm khống chế sâu bệnh hại trên ruộng. Phải thăm đồng thường xuyên để phát hiện kịp thời sự phát sinh của các đối tượng sâu bệnh hại để phòng trừ đúng lúc.
Cẩm Lai
Ý kiến bạn đọc