Multimedia Đọc Báo in

Binh pháp Võ Nguyên Giáp: Hợp thành từ yếu tố cốt lõi lấy dân làm gốc và chiến tranh nhân dân

20:09, 21/12/2014
Tài năng quân sự của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp bắt đầu từ trận Phay Khắt - Nà Ngần đến Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn 1975 có thể kể trong hàng nghìn trang sách. Có thể nói có một binh pháp Võ Nguyên Giáp. Vậy binh pháp Võ Nguyên Giáp là gì? Đó là các yếu tố cốt lõi hợp thành: Lấy dân làm gốc và Chiến tranh nhân dân.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1910 - 2013)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1910 - 2013)

Từ tư duy “lấy dân làm gốc”, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thắng mạnh, Võ Nguyên Giáp đã đi đến những quyết định, những “điểm huyệt” trong tư duy quân sự vô cùng tài tình và hiệu quả. Ví dụ trong Chiến dịch Biên giới năm 1950, kế hoạch là đánh thị xã Cao Bằng. Nhưng sau khi thị sát tình hình, Đại tướng đã quyết định đánh Đông Khê ở phía Nam cách thị xã Cao Bằng 45 km. Đánh Đông Khê thì Cao Bằng bị cô lập - đó chính là “điểm huyệt”. Nghĩa là Võ Nguyên Giáp không đánh Cao Bằng mà giải phóng được Cao Bằng, mở thông biên giới. Hay trong Chiến dịch Tổng tiến công mùa xuân năm 1975, Võ Nguyên Giáp đã nhận ra Buôn Ma Thuột chính là “điểm huyệt”, nên Đại tướng đã quyết định đánh Buôn Ma Thuột và chính quyền Sài Gòn đã sụp đổ chỉ mấy tháng  sau đó.

Bộ đội ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.   Ảnh: T.L
Bộ đội ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ảnh: T.L

Nhưng phải kể đến Chiến dịch Điện Biên Phủ - đỉnh cao của binh pháp Võ Nguyên Giáp: Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được ra đời với ý đồ của  Na-va án ngữ miền Tây Bắc Việt Nam, kiểm soát liên thông với Thượng Lào để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công và theo kế hoạch của Pháp, quân Việt Minh sẽ bị nghiền nát tại đó. Quân Pháp ở Điện Biên Phủ có tới 16.000 tên, chúng có pháo binh 105, 120 ly, xe tăng và máy bay thiện chiến, kể cả máy bay Mỹ tham gia tác chiến, lại được Mỹ viện trợ tài chính. Do vậy nhận lãnh trách nhiệm trước Bác Hồ và Bộ Chính trị quyết chiến thắng quân Pháp tại Điện Biên Phủ là một thử thách lớn về khả năng cầm quân và ý chí chiến thắng của Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Đại tướng kể: “Trước khi lên đường ra trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hỏi: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo chiến trường có gì trở ngại?”. Tôi trả lời: “Thưa Bác! Chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng khó xin ý kiến Bác và Bộ Chính trị”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền quyết định rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh. Không chắc thắng không đánh”. “Quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của tôi là “kéo pháo ra”, thay đổi từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” vì phương án đầu không bảo đảm chắc thắng. Tựu trung lại là phải giành thắng lợi tối đa với xương máu tối thiểu, nếu không thắng là cách mạng “hết vốn”…”. Dù phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” do cố vấn Trung Quốc đề xuất đã được thông qua, giờ nổ súng đã định nhưng Đại tướng vẫn quyết định thay đổi phương án. Cái gốc sâu xa của quyết định là “lấy dân làm gốc”, lấy chiến thắng hy sinh ít sinh mạng chiến sĩ làm gốc. Bởi thế mà  Tướng Vương Thừa Vũ sau này đã thốt lên rằng: “Nếu anh Văn không thay đổi cách đánh thì chúng tôi sẽ không sống sót để sau này mà đánh Mỹ”. Thay đổi cách đánh trong trận Điện Biên Phủ của Đại tướng còn là binh pháp “lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh”. 

Trở lại Điện Biên Phủ 60 năm trước, ngày 14-1-1954, tại hang Thẩm Púa, Tướng Giáp và Bộ Chỉ huy Chiến dịch phổ biến lệnh tác chiến bí mật với phương án "đánh nhanh, thắng nhanh" và ngày nổ súng dự định là ngày 20-1-1954. Nhiệm vụ thọc sâu giao cho Đại đoàn 308 - đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đại đoàn 308 sẽ đánh vào tập đoàn cứ điểm từ hướng Tây, xuyên qua những vị trí nằm trên cánh đồng, thọc thẳng tới Sở Chỉ huy của Đờ-cát. Các Đại Đoàn 312, 316 nhận nhiệm vụ, đột kích vào hướng Đông, nơi có những cao điểm trọng yếu. Phương án này đặt kế hoạch tiêu diệt Điện Biên Phủ trong 3 ngày đêm bằng tiến công ồ ạt đồng loạt, thọc sâu, đã được Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương cùng Bộ Tổng tham mưu phê duyệt với sự nhất trí của đoàn cố vấn quân sự Trung ương Trung Quốc, bởi đánh sớm khi Pháp chưa tập trung đủ lực lượng và củng cố công sự thì có nhiều khả năng giành chiến thắng.

Tuy nhiên sau 12 ngày đêm suy nghĩ, tại cuộc họp Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điên Biên Phủ gồm: Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tham mưu trưởng - Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Chủ nhiệm hậu cần - Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm, ngoài ra, bên cạnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch còn có đoàn cố vấn Trung Quốc do ông Vy Quốc Thanh làm Đoàn trưởng. Điều trăn trở của Đại tướng không chỉ vì những lời Bác Hồ dặn, chiến dịch này rất quan trọng, chỉ được đánh thắng, không chắc thắng thì không đánh, mà còn vì trách nhiệm trước xương máu của chiến sĩ. Ba phần tư lực lượng cơ động chiến lược của Việt Minh đã dồn lên chiến trường Điện Biên.

Nếu chiến dịch không thắng, hơn bốn đại đoàn chủ lực (các Đại đoàn bộ binh 304, 308, 312, 316 và Đại đoàn Công pháo 351) bị thương vong lớn thì tiền đồ cuộc kháng chiến sẽ ra sao, vị thế của đoàn ngoại giao ta tại Giơ-ne-vơ sẽ thế nào?

Trước tình hình đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã suy nghĩ rất kỹ có nên hoãn cuộc tấn công “đánh nhanh, thắng nhanh” mà giờ giấc đã định. Về chiến thuật tác chiến bộ binh, từ những kinh nghiệm thu được ở Hòa Bình, Nà Sản, Đại tướng chủ trương tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng, từng cứ điểm từ ngoài vào trong, thu hẹp phạm vi chiếm đóng cho tới lúc Pháp không còn sức kháng cự. Không sử dụng lối đánh xung phong trực diện mà dùng cách đánh vây lấn, đào hào áp sát cứ điểm địch như kiểu “thắt thòng lọng”. Cách đánh này cần một thời gian chuẩn bị và chiến đấu dài ngày, thường gọi là "đánh chắc, tiến chắc”, cũng còn được gọi là “đánh bóc vỏ”. Bộ binh được đường hào che chắn và có được vị trí tiến công gần nhất có thể, sẽ hạn chế tối đa thương vong khi tấn công .

Sau một đêm thức trắng, sáng hôm sau (26-1), với nắm ngải cứu buộc trên đầu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sang gặp Trưởng đoàn cố vấn Vy Quốc Thanh. Ông thẳng thắn nói lên những suy nghĩ của mình hơn 10 ngày qua, nêu lên những khó khăn về chiến thuật mà bộ đội ta chưa có điều kiện khắc phục và khẳng định đánh nhanh không bảo đảm thắng lợi. Cuối cùng ông nói rõ ý định tạm hoãn cuộc tiến công, kéo pháo ra, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại từ đầu để đánh theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Trong buổi họp Đảng ủy Mặt trận sáng hôm đó, Bí thư Võ Nguyên Giáp thấy lúc đầu, mỗi đồng chí Đảng ủy viên đều có lý do để bảo vệ ý kiến của mình, mà đều là những ý kiến không thuận, vẫn muốn tiến đánh để tư tưởng chiến sĩ không hụt hẫng. Tư lệnh, Bí thư Đảng ủy Võ Nguyên Giáp đề nghị các đồng chí Đảng ủy viên hãy vì trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và quân đội, hãy tự mình trả lời một câu hỏi cốt lõi lúc này là đánh như vậy có 100% chắc thắng hay không. Kết thúc buổi họp, Bí thư Đảng ủy Võ Nguyên Giáp yêu cầu từng thành viên trong Đảng ủy phải làm cho lãnh đạo các Đại đoàn đồng tâm nhất trí thay đổi cách suy nghĩ và hành động cho phù hợp với tình hình mới. Ông sẽ thay mặt Đảng ủy báo cáo và đề nghị Trung ương động viên hậu phương dốc toàn lực cùng bộ đội ở tiền tuyến khắc phục mọi khó khăn để giành thắng lợi trọn vẹn cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ngay sau đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận: Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là "đánh chắc thắng", cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc". Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết và kéo pháo ra. Mệnh lệnh được truyền đi, bộ đội tiến hành kéo pháo ra và lui quân về vị trí tập kết. Đồng thời Đại đoàn 308 bất ngờ được lệnh của Đại tướng hành quân lật cánh sang hướng Thượng Lào, phá sập hành lang chiến lược sông Nậm Hu làm cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ càng bị cô lập và buộc tướng Navarre tiếp tục điều quân từ đồng bằng lên đối phó. Đó là một đòn giáng chí tử.

Sau gần 2 tháng kéo pháo ra rồi lại kéo pháo vào, 17 giờ 6 phút ngày 13-3-1954, tại Sở Chỉ huy Chiến dịch ở Mường Phăng, mệnh lệnh nổ súng mở màn chiến dịch tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được Tư lệnh chiến dịch Võ Nguyên Giáp truyền đi qua máy điện thoại. 21 giờ 30 phút, ngày 7-5-1954, Bác Hồ và Bộ Chính trị đã nhận bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Chiến dịch báo cáo "Quân ta đã đại thắng tại Điện Biên Phủ". Như vậy toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã rơi vào chiếc thòng lọng “đánh chắc tiến chắc” bằng đánh lấn, bằng hệ thống giao thông hào mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã giăng ra.

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đi tới thắng lợi cuối cùng cũng chính từ bước ngoặt quan trọng thay đổi cách đánh của Tổng Tư lệnh. Ngày 7-5-1954, lá cờ Quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tung bay trên nóc hầm tướng Đờ-cát. Chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng là một sự kiện lịch sử đánh dấu thất bại hoàn toàn của nước Pháp, chấm dứt sự chiếm đóng của thực dân Pháp ở Đông Dương. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết và qua đó chấm dứt hơn 400 năm chủ nghĩa thực dân cũ  thống trị thế giới.

Để có những quyết sách “điểm huyệt” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như trong suốt cuộc đời làm tướng của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải nắm chắc tình hình địch ta, đi thị sát tận nơi và suy nghĩ sáng tạo để tạo thế “ít thắng nhiều”, “yếu thắng mạnh”, “đánh một điểm rúng động nhiều điểm”. Làm tướng, hay làm tham mưu tức là “bộ não” của một đoàn quân - bộ não ấy phải thông tuệ, uyên bác. Võ Nguyên Giáp ngay thời trẻ đã là giáo viên dạy Sử của Trường Tư thục Thăng Long Hà Nội, được người phương Tây coi là một trong những trí thức có học vấn nhiều nhất trong hàng ngũ lãnh đạo tiền bối Việt Nam thời đó. Sau chiến thắng  Điện Biên Phủ, Đại tướng đã tổng kết: “Dân tộc ta có thể tự hào rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, chúng ta đã chứng minh một chân lý vĩ đại. Chân lý đó là trong thời đại ngày nay một dân tộc thuộc địa bị áp bức, khi đã biết đứng dậy đoàn kết đấu tranh, kiên quyết chiến đấu cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội thì có đầy đủ khả năng để chiến thắng quân đội xâm lược hùng mạnh của một nước đế quốc chủ nghĩa”. Chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi sẽ được ghi vào lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta và của nhân dân các dân tộc trên thế giới. Đồng thời, chiến thắng Điện Biên Phủ đã đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới, lịch sử Việt Nam như một thiên tài quân sự. Khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời ngày 4-10-2013, hãng Thông tấn AFP đã vinh danh Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tác giả gây ra thất bại thảm hại cho đội quân viễn chinh Pháp tại vùng lòng chảo Điện Biên Phủ - sự kiện đặt dấu chấm hết cho sự xâm lược của thực dân Pháp tại Đông Dương và khẳng định: Sự kiện đó đã đưa ông trở thành tượng đài trong lòng nhân dân.

Ngô Minh


Ý kiến bạn đọc