Ấm áp Tết rằm tháng bảy của người Tày ở vùng cao Tây Bắc
Theo đồng bào Tày ở Tây Bắc, Tết rằm tháng bảy là cái tết lớn thứ hai (sau Tết Nguyên đán) được đồng bào chuẩn bị và tổ chức rất chu đáo với nhiều hoạt động khác nhau. Đến những bản Tày vào dịp tháng bảy âm lịch, ngay từ 13, 14 tháng bảy, không khí rằm đã tràn ngập trong mỗi gia đình bởi sự chuẩn bị nhộn nhịp, đông vui. Nào là chuẩn bị lá gói bánh, ngâm gạo để gói bánh và làm bún, chuẩn bị lợn cắp nách, vịt béo để mổ vào ngày rằm và mỗi gia đình cũng đều không quên nấu một nồi rượu ngon.
Đồng bào Tày Tây Bắc tấp nập đi chợ phiên vào ngày rằm tháng bảy. |
Cũng như người Kinh, đúng với bản chất của nó, Tết rằm tháng bảy của người Tày ngoài ý nghĩa thờ cúng tổ tiên và các vong hồn, còn là dịp để gia đình, dòng họ sum họp, con cái thể hiện lòng biết ơn, tình cảm và lòng hiếu thuận đối với cha mẹ. Vào ngày rằm, cho dù bận đến mấy hay làm ăn nơi xa, những người thân đều tìm về để sum họp với gia đình, vui cùng bản làng. Năm nào cũng vậy, dù không phải là chủ nhật chợ phiên nhưng đồng bào từ các bản đều ra chợ để tổ chức một phiên chợ chuẩn bị cho ngày rằm. Phiên chợ này rất đặc biệt, bởi hôm đó những sản vật phục vụ cho tổ chức lễ tết được người dân bày bán.
Một phong tục không thể thiếu trong ngày rằm tháng bảy ở bản Tày là gói bánh chưng. Bánh được đồng bào gói từ khoảng 13-14 âm lịch. Khác với bánh chưng ngày tết, bánh chưng rằm tháng bảy của người Tày thường nhỏ bằng ba đầu ngón tay, dài khoảng 12 cm. Đặc biệt, bánh gói bằng gạo nếp ngon và không có nhân đỗ như bánh ngày tết, đồng thời lá gói bánh không bằng lá dong mà chủ yếu gói bằng lá chít to bản còn tươi xanh hái ở trên rừng mang về. Khi bóc bánh, người Tày cũng có cách bóc riêng. Khi tách lá khỏi bánh, người Tày dùng luôn xương của lá chít để cắt bánh ra làm đôi rất tiện cho việc bày ra đĩa. Ngoài bánh chưng, người Tày vùng cao Tây Bắc còn gói bánh rợm, bánh gio để ăn vào ngày rằm.
Trong ngày rằm, dù chỉ trong thời gian một ngày nhưng đồng bào Tày Tây Bắc chế biến rất nhiều món ăn. Vốn ẩm thực truyền thống ở mỗi bản được các pả (bà), các ấm (mẹ), các pò (bố) gia công chế biến. Người dân chọn loại gạo ngon sau vụ gặt, ngâm nước từ đêm trước, sau đó sáng sớm ngày rằm tự tay mình làm cho gia đình những sợi bún dẻo thơm và trắng ngần. Thế là buổi trưa hôm rằm, cả nhà có một món bún chan canh thịt vịt ngọt lừ. Gia đình Tày nào cũng làm như vậy dù giàu hay nghèo. Ngoài bún, nhà nhà đều mổ lợn cắp nách, vừa nhỏ, vừa ngon, sạch, đủ cho cả nhà ăn trong ngày rằm. Có nhà mổ luôn từ chiều 14 để chiêu đãi anh em họ hàng. Những món ăn kèm theo mang đậm dư vị Tày như cá nấu măng chua, mẻ chưng cá suối, nộm hoa chuối rừng, rau dớn xào, canh gà nấu trám…
Một phong tục đã trở thành nét đẹp văn hóa không thể thiếu trong Tết rằm tháng bảy là tục “tết vịt bố mẹ vợ”. Gần đến rằm, con rể người Tày dù ở bản xa cũng nuôi được hay tìm mua một đôi vịt (một đực, một cái) thật béo, lông mượt để lễ tết bố mẹ vợ. Ngày 14 âm, con rể bắt vịt nhốt vào bu nứa kèm theo chai rượu ngon mang đến biếu bố mẹ vợ. Khi mang vịt đến, con rể tự tay mổ vịt, luộc bày thành mâm rồi đặt lên bàn thờ để cúng tổ tiên.
Đúng trưa ngày rằm tháng bảy, sau khi các món đã được chế biến xong, tất cả được đặt vào mâm đặt lên bàn thờ để cúng thần linh và tổ tiên. Người cao tuổi nhất nhà khăn áo chỉnh tề thắp hương kính mời thần linh và những người đã khuất về hưởng thụ lễ vật của người sống để phù hộ cho con cháu được bình an, ấm no và hạnh phúc. Sau khi tàn hương, cả nhà cùng quây quần quanh nâm cơm ấm cúng. Họ nâng chén rượu nồng cùng chúc nhau khỏe mạnh và làm ăn tiến tới. Hiện nay, đối với đồng bào Tày không có chuyện đốt vàng mã quá nhiều như người Kinh ở một số nơi. Sau khi ăn cơm sum họp gia đình, người Tày thường đến nhà người thân trong bản để thăm và chúc nhau sức khỏe. Thanh niên thì tập trung ở khu trung tâm bản để tổ chức những trò chơi như ném còn, đánh quay, đá bóng…
Đến nay, Tết rằm tháng bảy ở vùng cao Tây Bắc vẫn được đồng bào tổ chức theo đúng phong tục, mang đậm tính nhân văn - đó là một cái tết đoàn tụ gia đình và dạy bảo con cháu ăn ở hiếu thuận. Nét đẹp văn hóa này từ bao đời nay luôn được đồng bào nơi đây bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Nguyễn Thế Lượng
Ý kiến bạn đọc