Multimedia Đọc Báo in

70 năm xây dựng và trưởng thành của Văn phòng Tỉnh ủy Đắk Lắk

Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, phục vụ hoạt động lãnh đạo, điều hành của Đảng bộ tỉnh

11:09, 17/10/2017

Văn phòng Tỉnh ủy Đắk Lắk là cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng bộ tỉnh, trực tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh ủy trong tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo các nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh.

Đồng thời phối hợp hoạt động với các cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh ủy; kịp thời tham mưu, đề xuất các chủ trương, chính sách thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại; nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính, tài sản của Đảng bộ tỉnh; là trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy.

Lịch sử xây dựng và phát triển của Văn phòng Tỉnh uỷ Đắk Lắk gắn liền với lịch sử phát triển của Đảng bộ tỉnh, đó là cả một chặng đường đầy gian nan vất vả, song hết sức tự hào: Sau khi Ban Lãnh đạo lâm thời của tỉnh được thành lập (tháng 5-1945) do các đảng viên tù chính trị vừa ra khỏi Nhà đày Buôn Ma Thuột gây dựng, đến tháng 8-1945 tỉnh có 3 chi bộ Đảng và đến năm 1947, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và của Ban Chấp hành Đảng bộ miền Nam Trung Bộ, tỉnh Đắk Lắk thành lập Ban cán sự (BCS) Đảng tỉnh do đồng chí Nguyễn Khắc Tính làm Bí thư, đồng chí Ama Khê được cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến của tỉnh để thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng của tỉnh.

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Phạm Minh Tấn (đứng giữa) cùng lãnh đạo Văn phòng Tỉnh ủy kiểm tra tiến độ xây dựng trụ sở làm việc của Tỉnh ủy.   Ảnh: N. Xuân
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Phạm Minh Tấn (đứng giữa) cùng lãnh đạo Văn phòng Tỉnh ủy kiểm tra tiến độ xây dựng trụ sở làm việc của Tỉnh ủy. Ảnh: N. Xuân

Văn phòng BCS lúc bây giờ cũng bắt đầu được hình thành, nhưng chỉ sơ khai và có một vài cán bộ để giúp việc cho BCS. Sau đó, BCS tỉnh chỉ đạo thành lập một số BCS cấp huyện (M'Đrắk, Cheo Reo, Buôn Hồ); các cơ quan chức năng của tỉnh cũng dần được hình thành. Để làm tốt chức năng, nhiệm vụ tham mưu, giúp việc, đồng chí Võ Đôn Phước, Ủy viên BCS tỉnh khi ấy được phân công làm Chánh Văn phòng với các nhiệm vụ được giao là: phục vụ các yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo của BCS tỉnh; giúp BCS tỉnh theo dõi tình hình của các BCS huyện, các ngành; tổng hợp thông tin, làm báo cáo của cấp ủy; dự thảo các nghị quyết, chỉ thị cho cấp ủy...

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, cách mạng miền Nam chuyển hướng, từ hoạt động vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị. Một số đồng chí cán bộ của Văn phòng được chọn lọc bồi dưỡng để bám trụ lại chiến trường hoạt động. Đây là thời kỳ gian khổ ác liệt nhất, nhưng với sự linh hoạt, sáng tạo, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Văn phòng được phân công ở lại đã làm tốt công tác dân vận, công tác “3 cùng” với dân, đã giữ vững và phát huy tốt phong trào cách mạng của quần chúng, giúp cấp ủy tổ chức thành công các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh; phục vụ các chiến dịch, các bộ phận điện đài, cơ yếu, văn thư, đánh máy cùng đi để phục vụ…; tích cực chuẩn bị các mặt cả về vật chất và tinh thần, địa điểm và lực lượng để đưa đón các đoàn cán bộ cài cắm, xây dựng lực lượng ở các vùng căn cứ tại các huyện, thị trong tỉnh một cách an toàn.

Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất và lần thứ hai (tháng 8-1963), các Ban của Đảng lần lượt được thành lập, Văn phòng cấp ủy tỉnh tiếp tục được tăng cường và củng cố, số lượng cán bộ, nhân viên cũng được tăng lên nhằm bảo đảm an toàn cho các đồng chí lãnh đạo và bảo đảm bí mật tuyệt đối các hoạt động của BCS; kịp thời tham mưu, phục vụ các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, IV, V…và các nhiệm vụ chính trị quan trọng khác. Đặc biệt, đã làm tốt công tác tham mưu, đề ra các chủ trương, nhiệm vụ, biện pháp lãnh đạo quân và dân các dân tộc trong tỉnh chiến đấu giành nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tiêu biểu nhất là chiến thắng Buôn Ma Thuột, giải phóng tỉnh Đắk Lắk (10-3-1975), đây là chiến thắng quan trọng, có tính chất bước ngoặt lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mở màn cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (30-4-1975).

 Văn phòng Tỉnh ủy  nhận  phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng  Lê Thị Đây  (xã Ea Bông,  huyện  Krông Ana) từ tháng 1-2017.
Văn phòng Tỉnh ủy nhận phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Đây (xã Ea Bông, huyện Krông Ana) từ tháng 1-2017.

Trong thời kỳ nói trên, có 19 cán bộ, công chức của Văn phòng đã anh dũng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, một số đồng chí là thương binh, bệnh binh. Những đóng góp to lớn của các đồng chí ấy đã góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống của Văn phòng Tỉnh uỷ.

Sau giải phóng năm 1975 đến năm 1986, lãnh đạo Văn phòng Tỉnh uỷ gồm có các đồng chí: Ama H'Oanh, Hoàng Lê, Nguyễn Thanh Hồng, Đoàn Hối, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Bá Đạt. Nhiệm vụ cấp bách của Đảng bộ tỉnh thời gian này là lãnh đạo truy quét bọn phản động tàn quân, thiết lập lại trật tự an ninh, củng cố an ninh chính trị, trật tự xã hội; giải quyết nạn đói; xây dựng chính quyền cách mạng, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình, cùng với cả nước tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vượt qua các khó khăn, thử thách, Văn phòng Tỉnh ủy đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, bảo vệ an toàn tuyệt đối các đồng chí lãnh đạo của BCS Đảng của tỉnh (trước đây) và của Tỉnh uỷ (sau này).

Trong thời kỳ đầu đổi mới, nhiệm vụ của Văn phòng hết sức nặng nề, song với quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, tập thể cán bộ, công chức Văn phòng, dưới sự điều hành trực tiếp của đồng chí Nguyễn Văn Tứ, Chánh Văn phòng, sau đó là đồng chí Nguyễn Thành Trinh đã lãnh đạo tập thể Văn phòng đoàn kết, nhất trí, làm tốt công tác tham mưu cho Tỉnh uỷ lãnh đạo Đảng bộ tỉnh tập trung giải quyết các nhu cầu về đời sống của nhân dân, cụ thể hoá và thực hiện thắng lợi các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh…

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đất nước vừa có những thời cơ, thuận lợi lớn, nhưng cũng đan xen không ít khó khăn, thách thức. Với lợi thế về vị trí địa lý là trung tâm vùng Tây Nguyên, có hệ thống giao thông thuận lợi kết nối với các vùng kinh tế trọng điểm các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ và cả nước, có tiềm năng lớn về tài nguyên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh Đắk Lắk phát triển. Đứng trước các cơ hội và thách thức đó, tập thể lãnh đạo, cán bộ, nhân viên Văn phòng Tỉnh ủy quyết tâm làm tốt hơn nữa công tác tham mưu, phục vụ, giúp việc cho Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, nhằm triển khai có hiệu quả các nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra, giữ vững quốc phòng, an ninh; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị... , nâng cao niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Tất cả các yếu tố trên sẽ góp phần không nhỏ để Đảng bộ tỉnh tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Trải qua 70 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh uỷ, lớp lớp thế hệ cán bộ lãnh đạo, công chức, nhân viên Văn phòng Tỉnh uỷ trong các giai đoạn lịch sử đều nêu cao tinh thần đoàn kết, trung thành với Đảng, tận tụy với nhân dân và công việc được giao; ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổng hợp, phục vụ cấp ủy trong hoạt động lãnh đạo, điều hành của Đảng bộ tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra.

Bạch Văn Mạnh

(TUV, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy)


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.