Giải quyết hồ sơ cho nạn nhân chất độc da cam: Những khó khăn từ thực tế
Theo số liệu của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin (NNCĐDC) tỉnh, toàn tỉnh hiện có trên 4.500 NNCĐDC nhưng mới chỉ có 1.374 đối tượng được giải quyết chế độ trợ cấp hằng tháng, chiếm trên 30%. Sở dĩ số đối tượng được hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước còn ít so với thực tế bởi những khó khăn và bất cập trong công tác giải quyết chế độ mà chính các nạn nhân và các cấp, ngành đang gặp phải.
Gia đình chị Nguyễn Thị Đối (thôn 2, xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông) có 4 người con thì 2 trong số đó khi sinh ra đã bị dị tật bẩm sinh. Cháu đầu Trần Thị Anh Diễm (sinh năm 1982) bị khoèo chân từ nhỏ, trí nhớ kém, học mãi mới hết cấp I. Khi lên cấp II, do không tự đạp xe đến trường được, gia đình lại khó khăn không có người đưa đón nên đã nghỉ học từ lâu. Cháu thứ hai Trần Anh Hòa khi sinh ra đã bị bại não, cả chân và tay đều bị khoèo không đi lại, cầm nắm được. Suốt 27 năm qua, Hòa chưa một lần cất được tiếng gọi mẹ mà chỉ phát ra được những âm thanh ú ớ… mọi sinh hoạt đều phải có người chăm sóc, giúp đỡ. Thấy Hòa bị tật nguyền từ nhỏ, chị Đối đã làm đơn xin giải quyết chế độ trợ cấp da cam cho cháu bởi cả bố và mẹ chị đều tham gia hoạt động cách mạng ở vùng căn cứ H9 (nay là huyện Krông Bông) – nơi từng bị đế quốc Mỹ càn quét nhiều lần, bố chị lại là liệt sĩ. Tuy nhiên, hồ sơ của Hòa không được chấp thuận với lý do bố chị Đối không trực tiếp tham gia kháng chiến ở vùng bị quân đội Mỹ rải thảm chất độc hóa học. Và vì vậy, từ tháng 7-2009 đến nay, Hòa chỉ được nhận trợ cấp bảo trợ xã hội với mức 120.000 đồng/tháng. Số tiền này quá ít so với chi phí nuôi dưỡng, thuốc men cho Hòa, trong khi kinh tế gia đình chị Đối rất khó khăn. Theo ông Nguyễn Đình Thanh, Trưởng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) huyện Ea Kar, trên thực tế, thủ tục làm hồ sơ để giải quyết chế độ ưu đãi cho người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học đang gặp rất nhiều khó khăn. Cái khó hiện nay là vướng ở các tiêu chí bệnh tật để làm căn cứ cho người bị nhiễm chất độc hóa học không sát thực tế, thiếu cơ sở khoa học và thiếu nhất quán trong các văn bản ban hành. Thêm vào đó, việc làm hồ sơ giải quyết chế độ cho NNCĐDC bao gồm 14 loại giấy tờ liên quan chứng minh địa bàn hoạt động ở chiến trường, sức khỏe hiện tại của người tham gia kháng chiến, tình trạng dị dạng, dị tật của con, chứng từ điều trị của bệnh viện, biên bản họp của địa phương, danh sách niêm yết những người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học của UBND cấp xã… Trong khi đó, phần đông người dân, nhất là bà con dân tộc thiểu số không còn lưu giữ được hồ sơ, lý lịch, giấy tờ liên quan đến người tham gia kháng chiến, lại thiếu người hướng dẫn kê khai, dẫn đến sai sót nhiều lần, sinh nản chí, bỏ cuộc. Thủ tục làm hồ sơ còn lòng vòng và quá trình giám định phải chờ đợi, kéo dài… gây rất nhiều khó khăn cho người đi làm chế độ.
Suốt 27 năm qua, mọi sinh hoạt của cháu Trần Anh Hòa (thôn 2, xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông) đều phải có người chăm sóc, giúp đỡ. |
Có thể nói, chăm lo giải quyết chính sách cho nạn nhân nhiễm chất độc hóa học là việc làm hết sức cần thiết trong thời điểm hiện nay, thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn, thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam. Trách nhiệm này không chỉ của ngành LĐTBXH, Y tế, mà các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng phải vào cuộc nhằm đẩy nhanh tiến độ thẩm định hồ sơ, tổ chức giám định kịp thời, giảm tải lượng hồ sơ tồn đọng và sự chờ đợi căng thẳng, đồng thời chỉ đạo các cấp cơ sở hướng dẫn, thông tin đầy đủ, thực hiện đúng quy định góp phần giải quyết chế độ kịp thời cho các đối tượng.
Theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT, ngày 20-2-2008 của Bộ Y tế, danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin gồm: ung thư phần mềm (Soft tissue sarcoma); u lympho không Hodgkin (Non – Hodgkin’s lymphoma); u lympho Hodgkin (Hodgkin’s disease); ung thư phế quản - phổi (Lung and Bronchus cancer); ung thư khí quản (Trachea cancer); ung thư thanh quản (Larynx cancer); ung thư tiền liệt tuyến (Prostate cancer); ung thư gan nguyên phát (Primary liver cancers); bệnh đa u tủy xương ác tính (Kahler’s disease); bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính và bán cấp tính (Acute and subacute peripheral neuropathy); bệnh trứng cá do clo (Chloracne); bệnh đái tháo đường type 2 (Type 2 Diabetes); bệnh Porphyrin xuất hiện chậm (Porphyria cutanea tarda); các bất thường sinh sản (Unusual births); các dị dạng, dị tật bẩm sinh (đối với con của người bị nhiễm chất độc hóa học/dioxin); rối loạn tâm thần (Mental disorders). |
Ý kiến bạn đọc